Đánh giá của bạn về cổng thông tin điện tử
313 người đã bình chọn
1155 người đang online

Đời sống văn hóa các dân tộc ở huyện Quan Sơn

Đăng ngày 18 - 11 - 2019
100%

6.1. DÂN TỘC THÁI
6.1.1. Tên gọi và nguồn gốc lịch sử của người Thái ở huyện Quan Sơn
6.1.1.1. Tên gọi
Người Thái ở Việt Nam cư trú trên địa bàn khá rộng, từ miền Tây Bắc đến miền Tây Thanh Hóa và Nghệ An. Do cư trú ở những vùng miền có đặc điểm riêng về địa lý, lịch sử cùng các mối quan hệ giao lưu văn hóa, nên người Thái ở Việt Nam hình thành các nhóm Thái địa phương.
Trong quan niệm của các nhà dân tộc học, tên gọi hay danh xưng được xem là một “chỉ báo chủ yếu để phân biệt tộc người này với tộc người khác” và “chỉ cần biết thật tường tận ý nghĩa của các tên gọi nhóm địa phương, chúng ta cũng sẽ có những hiểu biết mới”( ). Để tìm ra được một số nét tương đồng và khác biệt về văn hóa giữa người Thái ở Thanh Hóa và Tây Bắc, thì vấn đề trước tiên là tìm hiểu về tên gọi các nhóm Thái ở hai vùng Thanh Hóa và Tây Bắc. Theo đó, cũng cần phải tìm hiểu về tên gọi của nhóm Thái ở Quan Sơn. 
Tên gọi dân tộc Thái đã trở thành tộc danh chung và được ghi nhận trong các văn bản pháp lý của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh danh xưng này thì người Thái vẫn dùng tên tự gọi là Táy hay Tày, Phú Tày, Cồn Tày trong phạm vi cộng đồng của họ. Dù ở Tây Bắc hay ở Thanh - Nghệ đều là như thế... Từ đó đã phát sinh ra nhiều tên gọi các nhóm Thái địa phương”( ).
Ở Tây Bắc có sự phân chia thành hai ngành: Thái Trắng (Tày Khao) và Thái Đen (Tày Đăm) rất rõ ràng. Khác với người Thái ở Tây Bắc, người Thái ở Thanh Hóa không phân định thành hai ngành Thái Đen, Thái Trắng mà chỉ có hai nhóm Thái với tên tự gọi là Tày Dọ và Tày Mươi. Tên gọi Tày hay Táy chỉ phần lớn bộ phận người Thái ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước, Lang Chánh, còn Tày Dọ chỉ một bộ phận người Thái ở huyện Thường Xuân. 
Nhóm Tày Dọ số dân ít hơn, tập trung ở mường Chiềng Vạn, huyện Thường Xuân, gồm các xã Vạn Xuân, Xuân Lộc, Xuân Lẹ, Xuân Chinh. Nhóm Thái tự nhận là Tày Dọ ở Thường Xuân gọi nhóm Thái có mặt lâu đời, trước nhóm này, phân bố chủ yếu ở Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước là Tày Mươi.
Nhóm Tày Mươi có số lượng dân cư đông hơn, cư trú tập trung ở vùng tây bắc Thanh Hóa, phân bố chủ yếu ở các huyện: Quan Sơn, Quan Hóa, Lang Chánh, Bá Thước, Mường Lát, Như Xuân, Như Thanh... Nhóm này còn được người Thái ở Thanh Hóa gọi là Tày hoặc Táy (biến thể do phát âm cao thấp của người Thái ở từng địa phương). 
Tuy nhiên, danh xưng (tên gọi) phổ biến nhất mà người Thái ở Thanh Hóa thường dùng là gắn với tên mường, bản, quê hương của họ. Chẳng hạn như: Tày Ca Da (người Thái mường Ca Da), Tày Khoòng (người Thái mường Khoòng), Tày Đeng (người Thái mường Đeng)( ), Tày Xia (người Thái mường Xia), Tày Mìn (người Thái mường Mìn); Tày Chự (người Thái mường Chự). Ngoài ra, trên địa bàn Quan Sơn, tên gọi còn chỉ rõ địa danh cụ thể nơi cư trú như: Tày Chiềng (người Thái ở bản Chiềng); Tày Nhài (người Thái ở bản Nhài); Tày Ngàm Mò (người Thái ở bản Ngàm, mường Mò); Tày Ngàm Chự (người Thái ở bản Ngàm, mường Chự)...
Như vậy, về danh xưng, người Thái ở Quan Sơn vừa có sự tương đồng với người Thái ở Việt Nam nói chung vừa có nét khác biệt. Bao trùm trong cách gọi tên dân tộc Thái ở Tây Bắc là gọi theo sự phân chia thành hai ngành Thái Trắng và Thái Đen. Còn ở Quan Sơn hay ở Thanh Hóa nói chung thì tự gọi theo tên các mường là yếu tố nổi bật nhất. 
6.1.1.2. Nguồn gốc lịch sử của người Thái huyện Quan Sơn
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở miền núi Thanh Hóa đã hình thành 40 mường của người Thái (Quan Hóa 7 mường, Mường Lát 7 mường, Quan Sơn 6 mường, Bá Thước 4 mường, Lang Chánh 4 mường, Thường Xuân 9 mường, Như Xuân 3 mường). Trong số đó, có 4 mường lớn có thế lực cả về kinh tế lẫn chính trị là mường Ca Da ở Quan Hóa, mường Khoòng ở Bá Thước, mường Chiềng Vạn ở Thường Xuân và mường Đeng ở Lang Chánh(2).
Quá trình hình thành cộng đồng người Thái ở Quan Sơn nằm trong bối cảnh chung về nguồn gốc người Thái ở Thanh Hóa. Kết quả khảo sát, nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử của người Thái ở Thánh Hóa được tổng hợp như sau:
- Người Thái ở Ca Da: “Con đường di dân đến Ca Da trong lịch sử của người Thái đã được thể hiện trong mo đưa hồn người chết. Trong bản mo ghi chép tại vùng Ca Da, khi kể đến đường đi ngày xưa của cây cỏ, súc vật từ trên trời xuống trần gian, có các địa danh tên đất, tên mường đã phản ánh một cách rõ ràng người Thái ở Ca Da đã từ Tây Bắc, từ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, đi dọc sông Mã xuống vùng Quan Hóa... Khi đã định cư vững chắc, người Thái lại tiếp nhận nhiều đợt di cư sau này của những người đồng tộc theo con đường truyền thống mà cha ông họ đã đi. Mặt khác, người Thái Ca Da cũng được bổ sung thêm một nguồn “Thái hóa” đáng kể từ người Mường, người Kinh nhập vào”( ).
- Người Thái ở mường Khoòng: “Dòng họ Hà Công, một dòng họ lớn ở mường Khoòng là một chi của dòng họ Hà Công của người Thái Mai Châu (Hòa Bình). Theo các cụ già ở xã Cổ Lũng, nơi trung tâm của mường Khoòng trước đây giải thích, tên Khoòng hàm ý giàu có và trước khi dòng họ Hà Công đến mường Khoòng, ở đây đã có dòng họ Lò Khăm. Ở mường Khoòng có truyện thơ Khăm Panh nổi tiếng kể về cuộc chiến của dòng họ Lò Khăm với giặc Khun Ha... Như vậy, trước khi dòng họ Hà Công di dân vào mường Khoòng thì người Thái đã có mặt ở mường Khoòng và dòng họ quý tộc là dòng họ Lò Khăm. Cuộc tranh giành quyền lực giữa hai dòng họ quý tộc Thái (Lò Khằm và Hà Công) đã được phản ánh trong truyện Khăm Panh (2). 
- Người Thái ở mường Chiềng Vạn: “Người Thái ở mường Chiềng Vạn có dòng họ lớn là Cầm Bá và tổ tiên của dòng họ này trước kia ở Lai Châu vào ở rể cho một chi họ chuyên về tế lễ đền từ (gọi là chi ông Đăm); còn một chi nữa chuyên lo lễ nghi thờ trời (gọi là ông Mường) đã sống ở đây từ trước. Hai chi ông Đăm và ông Mường thấy rể có chữ nghĩa lại tháo vát mới đoàn kết lại cùng nhau tổ chức mường Chiềng Vạn và để cho chi họ Cầm nắm quyền cai trị...(3).
- Về người Thái ở mường Đeng (Lang Chánh), kết quả khảo sát thực tế cho biết người Thái ở đây có nhiều dòng họ, được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có nguồn “Thái hóa” từ người Kinh(1):
+ Ông Lò Văn Piềng (78 tuổi, ở bản Tứ Chiềng, xã Yên Khương) kể rằng tổ tiên ông là người Kinh ở huyện Thọ Xuân, do túng thiếu, đói ăn nên di cư đến mường Đeng sinh sống, rồi di cư sang nước bạn Lào và được tạo mường Quyên gả con gái, cho ở rể và hưởng toàn bộ tài sản (do ông này không có con trai), sau đó lại trở về sinh sống tại mường Đeng. Tạo mường Đeng chặt cây không may đè chết người nên bị phạt vạ rất nặng nhưng được tổ tiên của ông Lò Văn Piềng giúp đỡ tiền bạc, rượu thịt để nộp phạt. Vì việc này nên tổ tiên của ông được tạo mường Đeng cấp ruộng, đầy tớ và cho mang họ Lò của tạo.
+ Ông Ngân Văn Minh (bản Tứ Chiềng, xã Yên Khương) cho biết tổ tiên ông ở mường Ký (huyện Bá Thước) di cư đến mường Đeng. 
+ Ông Lò Văn Thanh (bản Bôn, xã Yên Khương) nói rằng tổ tiên ông từ Quỳ Châu (Nghệ An) di cư đến mường Đeng. 
+ Ông Hà Đức Thiện (xã Yên Khương) nói rằng tổ tiên ông là người Kinh ở huyện Tĩnh Gia di cư sang nước bạn Lào, sau đó mới đến mường Đeng và đã bị “Thái hóa”(2).
Trong sự hình thành cộng đồng người Thái ở Thanh Hóa nói trên, chúng ta có thể nhận thấy người Thái ở Quan Sơn được hình thành từ một số nguồn di cư, chuyển cư chính sau đây: 
Người Thái từ đầu nguồn sông Hồng xuôi theo sông Hồng đến vùng hạ lưu sau đó di chuyển qua sông Đà, sông Mã ngược sông Lò, sông Luồng đến vùng đất Quan Sơn cư trú.
Người Thái từ Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình di cư qua Mường Lát, Quan Hóa sang Quan Sơn.
Người Thái từ tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào di cư theo sông Lò, sông Luồng, các dòng suối lớn, các đường cửa khẩu, đường tiểu ngạch đến Quan Sơn.
Người Thái từ các huyện Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân trong tỉnh Thanh Hóa chuyển cư đến Quan Sơn.
Người Thái từ các huyện Quế Phong, Con Cuông, Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An di cư đến Quan Sơn. 
Chứng tích của sự chuyển cư, di cư này được lưu giữ trong các bài khặp, bài mo của người Thái vùng mường Mìn, mường Xia,... ở Quan Sơn, khi mo đưa tiễn linh hồn người quá cố, phần nhiều là dẫn linh hồn người quá cố trở về thăm quê cũ mường Thanh, tỉnh Điện Biên, mường Lò, tỉnh Yên Bái, mường Xo, tỉnh Lai Châu, mường Do, tỉnh Lào Cai, mường Mộc (Mộc Châu), tỉnh Sơn La, mường Hạ - Mùn (Mai Châu), tỉnh Hòa Bình... đường đi thường là theo sông Lò, sông Luồng xuống sông Mã. Lời mo mô tả cảnh quan các địa danh, tên đất, tên mường làm khơi dậy một ký ức xa xưa mà ông cha của người quá cố đã đi qua. Sau đây là một đoạn trích trong mo người Thái ở Quan Sơn tiễn linh hồn về thăm quê cha đất tổ mường Thanh:
... Khứn mường Thanh, mường Lò dam pó
Khứn áp nặm băng nhớ Rốm nứa
Khứn mống nà tống quáng
Thanh tớ mì bo cứa
Thanh nứa mì bo kháu
Mường pú páu mứ mợn té mớ dam hấng tán cháu ơi!
Dịch:
... Lên mường Thanh, mường Lò thăm cha
Lên tắm nặm Rốm quanh năm vụng lớn
Lòng ung dung ngắm nhìn cánh đồng
Thanh dưới có mỏ muối
Thanh trên có mỏ thóc
Mường ông cha từ xưa ta đó ngài ơi!( )
Bên cạnh dòng chuyển cư đến vùng đất Quan Sơn thì người Thái ở Quan Sơn trước đây cũng di cư lẻ tẻ đến các huyện Quan Hóa, Mường Lát, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân và một số huyện trong tỉnh. Vào khoảng thế kỷ XVI - XVII, người Thái mường Xia, mường Mìn di cư vào các huyện Tương Dương, Con Cuông, tỉnh Nghệ An, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Vào cuối thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX, người Thái Quan Sơn di cư vào các tỉnh Tây Nguyên như Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông cư trú làm ăn lâu dài. Ngoài ra còn một số người Thái ở Quan Sơn (đi thoát ly) đã lấy vợ, lấy chồng và cư trú ở nhiều tỉnh trong cả nước.
Từ các nguồn dữ liệu, nghiên cứu và điều tra khảo sát nêu trên, ta có thể thấy người Thái ở Quan Sơn có nhiều nguồn gốc khác nhau: di cư từ Tây Bắc vào, từ Nghệ An ra, từ Lào sang và còn được bổ sung nguồn “Thái hóa” từ người Mường, người Kinh (họ Mạc, họ Hoàng...). Vì vậy, trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, văn hóa của người Thái ở Quan Sơn có nhiều nét đan xen, hình thành nên sắc thái địa phương.
6.1.2. Thiết chế bản mường và các mường của người Thái huyện Quan Sơn
6.1.2.1. Thiết chế bản mường
Thiết chế bản mường là hình thức tổ chức xã hội cổ truyền của người Thái tồn tại suốt thời kỳ chế độ phong kiến. Mường có tạo mường cai quản trông nom công việc xã hội, dưới tạo mường có người giúp việc gọi là pằn quyền. Dưới tạo mường có bản, bản to hay nhỏ phụ thuộc vào ruộng. Nơi nào có nhiều ruộng đất sẽ có nhiều bản to, đông nhà, đông người hơn. Bản xưa được chia thành các loại bản: bản chiềng, nơi trung tâm tạo mường ở; bản nhỏ trực thuộc pọng, quan bản, chá bản. Pọng là đơn vị trực thuộc mường; bản nhỏ trực thuộc pọng chỉ có một quan bản, chá bản trông coi công việc giúp pọng. Ngoài ra ở một số vùng còn có bản thín (loại bản có vị thế thấp nhất lệ thuộc vào nhà tạo). Người làm việc từ mường đến pọng xưa kia được dân ưu tiên cho phần ruộng tốt hơn, nhiều hơn bình quân.
Bản: Trong hệ thống xã hội cổ truyền của người Thái, dưới mường là pọng, dưới pọng là bản. Nét phổ biến ở chế độ xã hội phong kiến là mường nào cũng có bản “chiềng”. Bản chiềng trước đây phải có các yếu tố sau: là nơi trung tâm của mường; có địa hình bằng phẳng, cảnh quan đẹp, sơn thủy hữu tình; có sức hấp dẫn và thu hút toàn mường như bản chiềng ở mường Mìn; có tiềm năng, vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội; có đủ khả năng chi phối cả mường; có những người giữ các chức trách được giao có khả năng điều hành giỏi, quản lý tốt, hoàn thành các công việc được giao (đặc biệt là về quân lương, thuế khóa). Bản chiềng không thuộc pọng nào mà trực thuộc mường quản lí.
Cơ sở để hình thành các bản là quan hệ láng giềng, là việc xác định quyền chiếm dụng đối với đất đai. Từ cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống chuyển sang cộng đồng theo nguyên tắc dân cư của các bản Thái lúc đầu rất nhỏ về mặt quy mô. Tuy nhiên, cùng với quá trình tăng dân số và xáo trộn cư dân, phạm vi bản mường ngày càng mở rộng. Ngày xưa, các bản trung bình thường có từ 15 - 20 nóc nhà, bản lớn lên tới 50 - 70 nóc nhà, đến nay một bản có hàng trăm nóc nhà. Các bản có ranh giới, khu vực ruộng đất riêng. Trên khu vực đất đai thiên nhiên ấy, các gia đình đều có quyền khai thác, trồng trọt để đảm bảo cuộc sống gia đình. Mỗi bản thường có một nơi thờ cúng riêng, có chung bến nước, bãi thả trâu, bãi tha ma và hệ thống thủy lợi. Các gia đình trong bản đều có nghĩa vụ đắp mương phai, bảo vệ, gìn giữ trị an cho bản.
Các bản trong mường chia thành hai đẳng cấp: bản hàng mường và bản thín. Bản hàng mường là bản dân có quyền được tham gia bàn bạc các công việc của mường. Trong các bản hàng mường có bản chiềng là bản trung tâm, nơi có nhà tạo mường ở. Bản chiềng chuyên đảm nhiệm công việc truyền tin, loan báo. Một số mường có bản thín, là loại bản có vị thế thấp nhất lệ thuộc vào nhà tạo (thường là bản mới di cư đến). Bản thín không có tạo bản, chỉ có quan bản, nên không được ngồi ngang hàng với các bản hàng mường. Dân bản thín phải phục dịch nhà tạo, làm các công việc đồng áng, tạp dịch, nộp biếu các sản phẩm, vật liệu theo quy định của tạo.
Chức dịch cao nhất trong bản là tạo bản hay quan bản, người phụ trách chung mọi công việc của bản. Về danh nghĩa, chức vụ này do dân bầu ra trên cơ sở lựa chọn những người đàn ông có uy tín, gia đình khá giả, sau đó báo cáo tạo mường xem xét và quyết định. Riêng bản chiềng không có tạo bản mà do tạo mường trực tiếp cai quản. Tạo bản không được “cha truyền con nối”, nhưng trên thực tế chức vụ này do người trong dòng họ tạo mường nắm giữ. Về quyền lợi, tạo bản được cấp một số ruộng cấy 1.000 bó mạ (khoảng 10.000m2). Tạo bản được cấp nhiều hơn quan bản. Số ruộng này tùy từng bản.
Chức dịch thứ hai trong bản là chá bản - người giúp việc cho tạo bản. Có thể hiểu chá bản là người phổ biến, tuyên truyền mọi tin tức, công việc của bản, mường. Chá bản được cấp một số ruộng cấy 500 bó mạ (khoảng 5.000m2).
Tạo bản hay quan bản, chá bản phải trả lại số ruộng “lương” này khi không còn giữ chức vụ. Họ cũng được dân bản giúp việc không công một ngày khi mùa vụ đến hoặc được biếu phần khi trong bản có người mổ lợn, trâu bò, săn được thú, tìm thấy tổ ong... Ngược lại, tạo bản, chá bản cũng phải biếu tạo mường vào các dịp lễ, tết.
Pọng: Pọng của người Thái ở miền núi Thanh Hóa nói chung tương đương với xổng của người Thái ở vùng Tây Bắc. Pọng là đơn vị hành chính trung gian giữa bản và mường, nhiều bản gần nhau (3 - 5 bản) lập thành pọng. Đứng đầu pọng là tạo pọng. Riêng chiềng không có tạo pọng vì pọng này do tạo mường trực tiếp cai quản. Tạo pọng thuộc dòng họ tạo mường và có toàn quyền trong pọng của mình. Tạo pọng được cấp một số ruộng cấy 2.500 bó mạ (25.000m2) và dân pọng phải làm không công cho tạo pọng từ cày cấy đến thu hoạch. Khi xong việc được tạo pọng làm cơm thết đãi. Nếu dân bản săn được thú hay làm thịt trâu bò... thì phải biếu tạo pọng một phần thịt ngon. Khi nhà tạo pọng có ma chay, cưới xin, làm nhà... thì dân cũng phải đóng góp một phần lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu (tùy khả năng). Về nghĩa vụ, khi được tạo mường giao việc, tạo pọng truyền bảo tạo bản hay quan bản, chá bản và dân trong pọng thực hiện công việc được giao. Giúp việc cho tạo pọng có một số chức dịch sau:
- Quan pọng: Là người trực tiếp truyền lệnh của tạo pọng xuống các bản, giao nhiệm vụ cho các tạo bản, chá bản thực hiện nhiệm vụ của pọng, mường. Quan pọng là người thuộc dòng họ dân, có uy tín, khá giả và được dân bầu.
- Chá pọng: Là người giúp quan pọng lúc ốm đau hoặc bận việc. Chá pọng cũng thuộc họ dân và do dân bầu. Về quyền lợi, quan pọng được cấp một số ruộng cấy 1.500 bó mạ (15.000m2), chá pọng được cấp một số ruộng cấy 1.000 bó mạ (10.000m2). Quan pọng và chá pọng đều phải tự cày cấy phần ruộng của mình. Số ruộng “lương” này phải giao lại cho người khác khi không còn giữ chức nữa.
Mường: Mường là đơn vị hành chính cao nhất trong tổ chức xã hội cổ truyền của người Thái. Mường là một vùng lãnh thổ tương đối ổn định, tập hợp nhiều đơn vị dân cư quần tụ theo bản, do một dòng họ tạo cai quản. Mường mang tính chất hành chính, tự quản, chịu thần phục triều đình phong kiến tập quyền. Mường cũng là phạm vi không gian sinh hoạt văn hóa - xã hội của cộng đồng dân cư ở một vùng. 
Quy mô lớn nhỏ của một mường phụ thuộc vào lịch sử cộng đồng dân cư, thế lực của dòng họ tạo. Có mường lớn tương đương với vài ba xã hiện nay; có mường nhỏ, chỉ tương đương với một xã. Ranh giới giữa các mường thường là dông núi, dòng suối, dòng sông... 
Mường là một tổ chức xã hội truyền thống, song song tồn tại cùng bộ máy chính quyền nhà nước phong kiến. Tổ chức mường mang tính chất độc lập tương đối, gần giống như cát cứ của các tộc trưởng hoặc một vương quốc nhỏ trong chế độ phong kiến phân quyền, có bộ máy tổ chức, có luật tục mường, có quyền tự quyết về đối nội, đối ngoại.
Lãnh thổ của một mường là không gian sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của cộng đồng dân cư trong mường. Các hoạt động hội họp, đóng góp, cúng tế, lễ hội đều diễn ra trong địa bàn của mường, do dân mường thực hiện, không có sự can thiệp từ bên ngoài và cũng không vượt ra khỏi phạm vi mường. Việc giao dịch, cống, biếu do tạo hoặc người thay mặt làm sứ giả. Muốn cho mường yên vui, giàu có thì phải có tạo khôn, dân khỏe. Để có tiếng nói đồng thuận, các mường phải đặt ra luật lệ gọi là hít khong. Hít khong được truyền qua nhiều đời và được hội nghị bô lão trong mường bổ sung, điều chỉnh. Luật lệ quy định biện pháp phạt vạ để điều chỉnh hành vi của các thành viên trong mường, kể cả tạo.
Trên thực tế, toàn bộ đất đai trong phạm vi mường là của tạo mường, nhưng về danh nghĩa, gia đình tạo chỉ “ăn” một đám ruộng “lương” cấy 5.000 bó mạ (khoảng 50.000m2). Vào mùa sản xuất, dân các bản thín (bản lệ thuộc) phải cử người tới cày cấy, làm cỏ, thu hoạch không công cho nhà tạo, giúp việc cho tạo mường bao gồm các chức dịch sau:
- Tạo cai: Con thứ hoặc anh em dòng họ tạo, là người giúp việc đắc lực và được tạo mường phân cấp cho một số pọng, bản để hưởng lộc.
- Mụ mường: Người làm mụ mường phải có uy tín, kinh tế khá giả và được dân mường bầu. Có trường hợp, mụ mường chính là vợ của tạo mường. Về nghĩa vụ, mụ mường quản lý các bà một, lo mọi việc nữ công gia chánh ở nhà tạo, dựng vợ gả chồng cho con cái tạo. Về quyền lợi, mụ mường được cấp một số ruộng cấy 2.000 bó mạ (khoảng 20.000m2) gọi là “nà mụ mường” (ruộng mụ mường). Khi thôi chức thì phải giao lại cho người khác lên thay. Mụ mường còn được cấp một bản thín (dân lệ thuộc) để phục dịch. Dân bản thín này phải làm ruộng, rẫy cho nhà mụ mường, phải biếu các sản vật quý tìm thấy trong rừng và phần thịt gia súc khi gia đình có việc lớn như tang ma, cưới xin, làm nhà...
- Ông pằn, ông quyền, ho luông, ho cang, ông đội, ông hé: Những người này là họ dân, có uy tín, kinh tế khá giả, được dân bầu và không được “cha truyền con nối”. Mỗi người được giao một số công việc, cụ thể như: ông pằn, ông quyền làm công việc hành pháp; ho luông, ho cang làm công việc về lương thực, thực phẩm và đóng góp của dân bản; ông đội làm công việc về nông nghiệp và ông hé làm công việc tuyên truyền. Về quyền lợi, mỗi người được cấp một số ruộng cấy 2.000 bó mạ (khoảng 20.000m2) và phải tự cày cấy. Số ruộng này phải trả lại khi không còn giữ chức vụ nữa. Họ cũng phải biếu tạo mường vào những dịp lễ, tết hoặc những lúc nhà tạo có việc cưới xin, tang ma.
6.1.2.2. Các mường của người Thái huyện Quan Sơn
Vùng đất Quan Sơn gồm có các mường: mường Xia (thủ phủ của mường Chu Sàn, tên cũ thường gọi là mường Chu Sàn); mường Mìn; mường Sại; mường Mò; mường Hạ; mường Chự.( )
Mường Chự, nay gồm 4 xã là Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ và Trung Xuân. Xã Trung Xuân thuộc hai mường là: mường Chự (huyện Quan Sơn) và mường Ca Da (huyện Quan Hóa).
Mường Hạ gồm xã Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn Quan Sơn.
Mường Mò là xã Tam Thanh.
Mường Sại là xã Tam Lư.
Mường Mìn gồm xã Mường Mìn và Sơn Điện.
Mường Xia gồm xã Na Mèo và Sơn Thủy.
Mường Xia: Mường Xia trước đây là thủ phủ của mường lớn Chu Sàn( ). Mường Chu Sàn bao gồm các mường thuộc phía nam sông Mã kể từ mường Chanh (huyện Mường Lát) xuống đến mường Chự (huyện Quan Sơn). 
Theo thông lệ của người Thái ngày xưa, trong mường lớn có mường trong và mường ngoài. Mường trong là mường trung tâm được gọi đồng tên với mường lớn. Vì vậy mường Xia trước đây là thủ phủ (mường trong) của mường Chu Sàn nên cũng được gọi là mường Chu Sàn. Các mường ngoài thuộc mường Chu Sàn gồm: mường Chanh, mường Xim, mường Ai, mường Chiềng Cồng (Tén Tằn, huyện Mường Lát); mường Khiết, mường Khằng, mường Tuồng (huyện Quan Hóa); mường Chự, mường Mò, mường Hạ, mường Sại, mường Xia, mường Mìn (huyện Quan Sơn).
Phía bắc sông Mã từ mường Lát, mường Lý (huyện Mường Lát), xuống mường Páng, mường Lè, mường Ánh, mường Ca Da (huyện Quan Hóa) trước đây thuộc mường lớn Chu Gia.
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829) sáp nhập hai mường lớn là Chu Sàn và Chu Da thành lập chu Quan Da sau đổi tên là châu Quan Hóa. Lúc này, tên gọi hai mường Chu Sàn và Chu Da không còn nữa chỉ còn các tên gọi các mường nhỏ phụ thuộc chu Quan Da.
Mường Xia có ranh giới: Phía đông giáp mường Mìn (tại Pha Dùa, xã Mường Mìn ngày nay); phía tây giáp huyện Viêng Xay (tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào)( ); phía nam giáp mường Mìn (xã Mường Mìn ngày nay); phía bắc giáp mường Khiết (xã Hiền Kiệt và Hiền Chung ngày nay).
Mường Xia xưa kia đất đai phì nhiêu, có nhiều ruộng nước cấy hai vụ. Đất đai tự nhiên rộng, có sông Luồng chảy qua, đoạn qua vùng mường Xia dài khoảng 20km. Đất mường Xia có nhiều khe suối dồn nước về sông Luồng. Trong đó có các suối lớn là suối Cài, suối Cha Khót, suối Son, suối Xia.
Rừng mường Xia có nhiều loài gỗ quý như: sa mu, lát, dổi, chò chỉ, vàng tâm, vù hương... Ngoài gỗ còn có vầu, nứa, bương ở rừng tự nhiên và luồng trồng ở các hộ dân. Chính nhờ nguồn tài nguyên này mà nhân dân có nguồn thu nhập ổn định. Hiện nay nhiều xưởng chế biến gỗ, đũa luồng, tăm mành, tăm hương từ nứa, vầu được hình thành tạo thêm việc làm và thu nhập cho người dân. Rừng nơi đây không chỉ có gỗ quý mà còn có nhiều động vật quý như: voi, tê giác, gấu, hổ, bò rừng, nai, hoẵng, lợn rừng, khỉ, vượn, voọc, tê tê...
Vùng mường Xia có nhiều phong cảnh đẹp và điểm du lịch hấp dẫn, kỳ vĩ như Pha Dùa, động Bo Cúng (bản Chanh), đền thờ Tư Mã Hai Đào, thác 20 sải ở suối Sàng (Na Mèo), Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo.
Mường Mìn: Mường Mìn trước thế kỷ XV gọi là mường Mì (có nghĩa là mường có) bởi vì vùng đất nơi đây trên rừng có nhiều cây lắm thú, dưới sông, suối có nhiều cá tôm, đồng ruộng nhiều, đất tốt. 
Thời ông Lò Khằm Yên (Tạo Lá Dốn) làm tạo mường Mì có hai chiềng là chiềng Nưa và chiềng Cang; phía trên cửa suối Cướm đổ ra sông Luồng trở lên do tạo mường cũ họ Vi Khăm cai quản, còn từ suối Cướm trở xuống gọi là chiềng Cang do Tạo Lá Dốn (Lò Khằm Yên) cai quản.
Thời ông Phạm Bá Mìn (con ông Lò Khằm Yên) làm tạo mường thì chiềng Nưa, chiềng Cang được nhập làm một lấy tên là mường Mìn theo tên của ông tạo mường, trung tâm mường ở bản Ngước Làu (Luốc Làu). 
Mường Mìn có ranh giới: Phía đông giáp mường Mò( ); phía tây giáp mường Xia; phía nam giáp huyện Viêng Xay, Sầm Tớ (tỉnh Hủa Phăn, nước Lào); phía bắc giáp mường Khằng (xã Thiên Phủ, huyện Quan Hóa).
Mường Mìn là vùng núi non trùng điệp, sơn thủy hữu tình, có nhiều cảnh đẹp: núi Pha Dùa nổi tiếng trong vùng gắn với chứng tích chuyện tình Pha Dùa; dãy núi Pha Phanh gắn với những câu chuyện huyền thoại về thuồng luồng ở hồ nước (dưới chân núi Pha Phanh, đồng bào sống quần cư, nơi đây xưa kia còn là cứ địa kháng chiến chống thực dân Pháp của xã Sơn Điện (mường Mìn) trong những năm 1948 - 1953); núi Pha Đón mây phủ quanh năm; thác cao 3 tầng ở suối Nhài, phía trong có dãy núi Pù Kỳ cao vút (nơi ở của người Khơ mú xưa kia). Chính giữa mường có sông Luồng uốn khúc chảy qua và có nhiều khe suối vừa và nhỏ. Trên đất mường Mìn còn có núi Pom Giới (nơi đồn bốt của người Giới và sau là nơi đóng quân của quân Minh xâm lược, nay vẫn còn dấu tích nền nhà chiến hào)( ). 
Mường Mìn xưa, nay đã chia thành hai xã là Mường Mìn và Sơn Điện. Đây là hai xã thuộc vùng cao biên giới của huyện Quan Sơn, nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa giáp với nước bạn Lào (có 85% dân số là dân tộc Thái). Do đặc điểm này mà văn hóa vùng mường Mìn có những nét giao thoa với văn hóa Lào, mà biểu hiện dễ nhận thấy nhất là trang phục của phụ nữ ở mường Mìn.
Mường Mìn, mường Xia là hai mường kề nhau nên có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên và phong tục tập quán. Ngày xưa, nhân dân đã có câu ca:
Mường Xia tộc tá hín
Mường Mìn tộc tá lạn
Tộc tá hín bau dán xiếu nặm
Tộc tá lạn áp luân xía khày
Nàng dáng tàng páy cáy mắn teo dám dứ.
Dịch:
Mường Xia có bến đá cuội
Mường Mìn có bến đá tảng
Bến đá cuội không lo thiếu nước
Bến đá tảng tắm rửa sạch người
Nàng đi đường xa năng ghé thăm chơi.
Hoặc:
Mường Xia cặp mường Mìn cai lìn xóng nặm
Lìn bá nọi tếm tống nà mường
Mướng phai lí ty na lái tống
Kháu du lạu báu xiếu chơ lơ.
Dịch:
Mường Xia và mường Mìn bắc máng hai sông
Máng dù nhỏ cũng đủ tưới ruộng mường
Máng phai dài tưới đồng ruộng mênh mông
Lúa đầy kho năm tháng dồi dào( ).
Lúa ở kho không khi nào hết, bởi đất của hai mường đều nhiều ruộng nước, có nhiều đất tốt có thể làm nương rẫy quanh năm. Do đất đai tốt tươi màu mỡ nên cơm nếp ở mường Xia, mường Mìn thường trắng, dẻo, thơm hơn; có khi cũng giống lúa ấy cấy ở mường khác lại không được như thế. Mường Xia còn có cá hai nước là sông Luồng và suối Xia, mường Mìn cũng có cá hai nước sông Luồng và suối Yên. Hai mường cùng chung Pha Hen và Pha Dùa, cùng có nhiều bãi rộng ven sông Luồng. Tuy nhiên hai mường cũng có đôi nét khác nhau: đất mường Xia không có cây cọ, cây kè, cây mác khẻn. Mường Mìn có rất nhiều cây cọ, cây kè và cây mác khẻn mọc tự nhiên. Vì thế mà trước đây (từ những năm 70 của thế kỉ XX) trở về trước, nhà của người mường Mìn thường lợp lá cọ, lá kè, còn nhà của người mường Xia thường lợp nứa, vầu hoặc lá tranh. Mường Mìn có sông Luồng chảy qua từ Pha Dùa đến hết phần đất bản Sủa, dài hơn 20 km. Đất đai mường Mìn rộng, có nhiều sông suối, đồi núi thoải, piềng bãi dọc sông Luồng và các suối khai hoang làm ruộng rất tốt. Mường Mìn có cánh đồng Chiềng Mìn, bản Yên, Tân Sơn, Nhài, Na Nghịu, nơi nào cũng rộng, cấy lúa hai vụ năng suất cao. Lúa nếp cay nọi là giống lúa thơm của người Thái, giống lúa này có ở nhiều vùng Thanh Hóa nhưng khi được cấy ở cánh đồng Nà Lè của bản Chiềng mường Mìn dẻo, thơm hơn các vùng khác( ).
 Mường Mò: Mường Mò ngày xưa bao gồm cả mường Sại (xã Tam Lư ngày nay), mường Hạ (xã Sơn Lư, Sơn Hà, thị trấn Quan Sơn ngày nay), mường Mò (xã Tam Thanh ngày nay). Trung tâm mường Mò đặt ở bản Na Ấu.
Địa giới mường Mò: Phía đông giáp mường Chự (tại cửa suối Cum - Km 25, đường 217); phía tây giáp với mường Mìn; phía nam giáp huyện Sầm Tớ (tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào); phía bắc giáp mường Tuồng (xã Nam Đông ngày nay)( ). 
 Mường Mò trước đây có 3 pọng: pọng Bôn Ngàm gồm các bản Bôn, Ngàm, Kham, Phe, Cha Lung, Pa. Pọng Dôi gồm các bản thuộc xã Tam Lư ngày nay là Piềng Khé (Khóe), Sai, Hậu, Tình, Muống, Hát. Pọng Tái gồm các bản: Sỏi, Bìn, Hẹ, Hao, Bon, Păng, Hiềng (thuộc xã Sơn Lư ngày nay); bản Lấm (thuộc thị trấn Quan Sơn ngày nay); bản Làng, Hạ, Na Ấu, Làu, Xum (thuộc xã Sơn Hạ ngày nay).
Sau này các pọng Dôi, pọng Cái thành lập mường mới không trực thuộc mường Mò nữa. Mường Mò chỉ còn lại phần đất từ bản Mò, bản Na Ấu, còn bản Hậu tuy nhập về mường Mò nhưng nay thuộc xã Tam Lư quản lý.
Hiện nay, sau khi chia tách 3 mường (mường Mò, mường Sại, mường Hạ) thì mường Mò có địa giới như sau: phía đông giáp mường Sại; phía tây giáp mường Mìn; phía nam giáp mường Pao (huyện Sầm Tớ); phía bắc giáp mường Sại.
Mường Mò hiện tại là toàn bộ xã Tam Thanh và bản Hậu xã Tam Lư. Mường Mò là vùng dọc sông Lò, nơi có loại cây phèn để thả cánh kiến đỏ, trước đây rất phát triển. Cũng là cây phèn nhưng ở các vùng đất khác, cánh kiến không phát triển tốt. Do vậy mà mường Sại, mường Mò, nhất là mường Mò; trước đây cánh kiến đỏ có sản lượng lớn, chất lượng cao nổi tiếng cả vùng Quan Hóa cũ.
Mường Mò có nhiều rừng vầu, nứa, gỗ, luồng, ruộng nước trải khắp các bản trong mường; trong đó có các cánh đồng nổi tiếng trong vùng như các cánh đồng bản Mò, Na Ấu, Ngàm, Bôn.
Người Thái ở mường Mò có tiếng khéo tay, giỏi đan lát, dệt thổ cẩm. Trên địa bản mường Mò có thác 20 sải ở suối Khà - bản Ngàm, nước đổ trắng xóa quanh năm. Mường Mò còn có nhiều cây thuốc quý, nhiều thầy thuốc Nam giỏi.
Mường Sại: Mường Sại trước đây là pọng Dôi thuộc mường Mò. Pọng Dôi lấy tên là mường Sại bao gồm các bản: Sại, Hậu, Muống, Tình, Hát. Có lẽ vì cảnh của bản Sại đẹp nên tạo và dân mường Sại đã lấy bản Sại làm trung tâm mường và đặt tên là mường Sại.
Rừng ở mường Sại có nhiều gỗ, nứa, vầu. Đây là nguồn nguyên liệu cho các xưởng chế biến tại chỗ, góp phần nâng cao đời sống cho người dân.
Bản nào của mường Sại cũng có ruộng nước cấy 2 vụ, trong đó nổi tiếng là cánh đồng bản Sại. Sông Lò chảy qua mường Sại từ bản Piềng Khóe (hay Piềng Khé) đến hết bản Hát dài trên 7 km. Suối Tình cung cấp nguồn nước tưới tiêu và nguồn thủy sản cho đồng bào. 
Địa giới mường Sại: Phía đông giáp mường Hạ (xã Sơn Lư và Sơn Hà hiện nay); phía tây giáp mường Mò (xã Tam Thanh hiện nay); phía nam giáp mường Pao (huyện Sầm Tớ - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) và mường Hạ (xã Sơn Lư hiện nay); phía bắc giáp mường Hạ (xã Sơn Lư hiện nay). 
Mường Sại hiện nay là xã Tam Lư, gồm các bản: Sại, Piềng Khóe, Muống, Tình, Hát và bản Hậu. 
Mường Hạ: Mường Hạ trước đây là pọng Tái thuộc mường Mò. Trung tâm mường Hạ đặt tại bản Hạ (xã Sơn Hà ngày nay). Tên gọi mường Hạ có lẽ bắt nguồn từ tên gọi suối Hạ, bản Hạ. 
 Địa giới mường Hạ: Phía đông giáp mường Chự (tại ranh giới thị trấn Quan Sơn, xã Sơn Hà và Trung Thượng ngày nay); phía tây giáp mường Mìn (tại ranh giới xã Sơn Lư và xã Sơn Điện ngày nay); phía nam giáp mường Sại (xã Tam Lư - huyện Quan Sơn) và mường Pao (huyện Sầm Tớ - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) và xã Lâm Phú (huyện Lang Chánh - tỉnh Thanh Hóa); phía bắc giáp mường Tuồng (xã Nam Động, huyện Quan Hóa).
Mường Hạ có nhiều ruộng nước hai vụ, đất đai phì nhiêu, dòng suối Hạ trong xanh, có nhiều tôm cá, rừng mường Hạ trước đây có nhiều thú và cây rừng quý hiếm. Mường Hạ có sông Lò chảy qua dài 7 km, có nhiều suối nước chảy quanh năm, trong đó có hai suối lớn là suối Tuôm bắt nguồn từ bản Sỏi, bản Bìn chảy qua bản Hạ, bản Hao, bản Bon (dọc đường 217) đổ ra sông Lò tại bản Bon Km 40. Suối Hạ bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào chảy qua bản Xum, Làu, Hạ, Piềng Làng đổ ra sông Lò tại Km 36. Rừng mường Hạ ở các bản Xum, Làu, Nà Ơi, Nà Sắng, Hạ, Piềng Làng trước đây nhiều gỗ, nứa và thú rừng. 
Mường Hạ bao gồm hai xã Sơn Lư, Sơn Hà và thị trấn huyện Quan Sơn ngày nay. Trên đất mường Hạ có động Nang Non (hang Pha Su Lú) - một danh thắng có tiềm năng phát triển du lịch ở Quan Sơn. 
Mường Chự: Địa phận mường Chự trước đây từ đầu Piềng Phố xã Trung Xuân lên đến cửa suối Cum. Trung tâm mường Chự ở bản Chiềng Xày. 
Trước thế kỷ XVIII, mường Chự có các bản: Cạn, La, Mòn(1) (xã Trung Xuân ngày nay), Cha Lang, Xanh, Bá, Chiềng Xày, Xày, Din, Lợi (xã Trung Hạ ngày nay) và Pọng, Lầm, Tong, Cum, Pa Chè (xã Trung Tiến ngày nay).
Sau khi cùng mường Mò phân chia lại ranh giới lên đến suối Lý Km 33 thì mường Chự có thêm các bản: Bách, Ngàm, Bôn, Pù Khạn, Mảy, Bàng (xã Trung Thượng).
Địa giới mường Chự: Phía đông giáp mường Ca Da (huyện Quan Hóa) và mường Ký (huyện Bá Thước); phía tây giáp mường Mò, mường Hạ (huyện Quan Sơn); phía nam giáp mường Đôn (xã Lâm Phú - huyện Lang Chánh); phía bắc giáp mường Tuồng (xã Nam Xuân, Nam Tiến - huyện Quan Hóa).
Vùng đất mường Chự trước đây tài nguyên thiên nhiên ít, có nhiều núi đá nên hạn chế trong việc phát triển kinh tế.
Vào khoảng thế kỷ XV, mường Chự có ông nghè gọi là nghè Chự (Chứ) là người đỗ đạt cao nhất các mường vùng dân tộc Thái ở Chu Sàn, Chu Gia lúc bấy giờ. Dân gian lưu truyền rằng: Thời đó mường Chự không có người làm tạo. Một ngày đẹp trời, dân mường Chự xuôi bè theo sông Mã buôn bán ở dưới xuôi. Khi về đến làng Đa Nê thuộc Yên Thọ (huyện Yên Định ngày nay) họ thấy trong đám trẻ chăn trâu bên bờ đê có một cậu bé rất khôi ngô, tuấn tú. Họ hỏi cậu bé con cái nhà ai. Cậu bé trả lời là trẻ mồ côi, không nhà không cửa, cũng không biết bố mẹ là ai. Nghe thấy như vậy họ rủ cậu bé về mường Chự và nói sẽ cho làm tạo mường; cậu bé ưng thuận. Khi đưa cậu bé về, cả mường tập trung đến mừng và nhất trí suy tôn cậu làm tạo mường Chự. Dân cả mường quyên góp tiền của cho tạo đi học. Tạo rất chăm học, học giỏi và đã đỗ ông nghè. Nhà vua đặt tên cho tạo là Hà Quý Công, tự là Phúc để tạo phúc và cho về làm tạo mường Chự theo nguyện vọng của dân mường Chự.
Hiện nay, mộ ông nghè nằm ở nghĩa địa cổ của bản Din, xã Trung Hạ (Km 21) cách đường cái vào chừng 300m, mộ đá ghi chữ Nôm, nay bia đá bị vỡ, mộ chí không ai chăm sóc, xây cất lại nên ngày càng khó xác định vị trí.
6.1.3. Một số dòng họ của người Thái huyện Quan Sơn 
Người Thái gọi họ là “chao”. “Chao” bắt nguồn từ “cháo” nghĩa là mầm hạt mới nảy ra, có nghĩa là nòi giống. Người Thái ở Thanh Hóa khi hỏi thăm nguồn gốc của khách xem là con cháu nhà ai, thường dùng câu: “Tán tộc mưa ngốp lờ, cháo lờ?” (Ngài thuộc về tộc nào, mầm nào). Tổ tiên dòng họ, người Thái gọi là “đẳm”, “đẳm chao”, “đẳm páng”. Họ người Thái theo huyết thống của dòng cha phản ánh quan hệ phụ quyền. 
Cho đến bây giờ vẫn chưa xác định chắc chắn được dòng họ nào ra đời trước. Nhưng hiện tại, trong cộng đồng người Thái, các họ Lò, Hà, Vi, Lương, Cầm là đông hơn cả. Các họ này phân bố rải rác khắp các vùng Tây Bắc Thanh Hóa, Nghệ An và trong một số tộc người thuộc họ ngôn ngữ Tày - Thái. Cách thông thường là lấy tên quê hương cũ đặt cho họ của mình. Chẳng hạn, chao Kha (họ Hà) liên quan đến quê hương cũ là mường Hước Kha (ở Lào Cai), họ Lò thì liên quan đến quê hương mường Lò (Yên Bái),... Một số dòng họ có nguồn gốc từ dân tộc khác như họ Bùi, Đinh, Lê, Hoàng, Phạm. 
Trong xã hội người Thái, đồng bào thường phân loại chất lượng dòng họ theo kim loại (vàng, bạc, đồng, sắt). Có thể do vậy mà sinh ra tên gọi họ Cầm (tức là Vàng) họ Ngân (tức là Bạc), họ Tòng (tức là Đồng), họ Lệch, sau này đổi thành Lộc và Địch (tức là Sắt). 
Một hiện tượng phổ biến khác trong xã hội người Thái là chia nhánh và xin vào họ, đổi họ. Ví dụ: Họ Lò chia thành Lò Khằm và Lò Văn. Từ Lò Khằm lại sinh ra họ Cầm, họ Lang. Họ Lò Khằm đổi thành họ Phạm (ở Quan Hóa, Quan Sơn). Trong họ Hà có một dòng thuộc trường hợp những người không biết họ gốc hoặc tự giác bỏ họ của mình lấy họ Hà làm họ mới tên gọi là “Kha lặc”( ). 
Quan hệ dòng họ của người Thái hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở huyết thống và nhu cầu tập hợp sức mạnh để tồn tại và phát triển. Mối quan hệ dòng họ là chỗ dựa về tình cảm của cả cuộc đời. Tục ngữ Thái có câu:
            Cồn tộc nhăng mì họ
            Cồn khó nhăng mì mường.
Dịch:    
            Người bần cùng còn có họ
            Người nghèo khó còn có bản, có mường.( )
Mặc dù quan hệ họ hàng của người Thái không vượt lên trên quan hệ cộng đồng mường, bản và không thay thế quan hệ “lung ta” (ông bà, cậu mợ bên ngoại) nhưng rất quan trọng. Người Kinh (Việt) nói “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, người Thái cũng nói:
            Cộc có lơ óc vớ có nặn
            Cộc có co bau óc no co páo.
    Dịch:        
Gốc cây nào ra lộc cây đó
Gốc cây dẻ không mọc chồi cây nứa tép( ).
Người Thái ở Quan Sơn có các dòng họ: Họ Phạm (trước đây là họ Lò Khằm), Lò Văn, Lương, Vi, Hà, Ngân, Lữ, Lục, Len, Lộc, Lang, Mạc và một số họ của dân tộc khác do quá trình “Thái hóa” tự nhận là người Thái, hoặc xin nhập vào dân tộc Thái như: Hoàng, Đỗ, Lê, Nguyễn, Mạc.
Trong các họ người Thái ở Quan Sơn có một số họ lớn, có dân cư đông như: họ Lò Khằm (sau chuyển thành họ Phạm Bá, là họ lang đạo có hàng chục đời làm quan), họ Lương, họ Vi, họ Hà, họ Ngân, họ Lữ,... Sau đây là vài nét giới thiệu về một số dòng họ của người Thái ở Quan Sơn.
Họ Phạm Bá: Dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn trước thế kỷ XV là dòng họ Lò Khằm. Ông Lò Khằm Yên người mường Vén (tỉnh Hủa Phăn, nước Lào) cầm quân sang Việt Nam giúp Lê Lợi chống quân Minh cùng thời với ông Lò Khằm Ban cũng từ Lào sang Hồi Xuân (Quan Hóa) giúp Lê Lợi đánh giặc Minh.
Sau khi đánh thắng giặc Minh, hai ông được Lê Lợi thưởng đất đai cho ở lại Việt Nam và đổi họ từ họ Lò Khằm sang họ Phạm Bá. Đến nay con cháu dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn dùng nhiều tên lót khác nhau như: Phạm Bá, Phạm Xuân, Phạm Hồng, Phạm Văn... Một số bản ở phía hạ lưu sông Lò thuộc xã Trung Xuân (bên ngoài bản Piềng Phố) trở ra trước đây thuộc Ca Da, xã Hồi Xuân (Quan Hóa) thì dòng họ Phạm chủ yếu là hậu duệ của ông Lò Khằm Ban từ Hồi Xuân vào cư trú. Còn tập trung nhiều nhất ở Sơn Điện, Mường Mìn, Sơn Thủy, Na Mèo, Tam Lư, Tam Thanh, thị trấn Quan Sơn là hậu duệ của ông Lò Khằm Yên (Tạo Lá Dốn). Các họ Phạm là người Mường, người Kinh ở nơi khác đến đây cư trú không phải nguồn gốc họ Lò Khằm.
Họ Lò Khằm trước đây, Phạm Bá ngày nay là dòng họ lớn, nhiều đời đứng ra cai quản bản mường, hướng dẫn, tổ chức cho nhân dân làm ăn, xây dựng bảo vệ quê hương từ đời này qua đời khác. Nhiều thế hệ dòng họ Phạm Bá (Lò Khằm) ở Quan Sơn đã anh dũng đứng lên tập hợp nhân dân chống giặc ngoại xâm, giặc cỏ, chống thiên tai, thú dữ để giữ yên bản mường, xây dựng cuộc sống yên bình, ấm no cho dân. Có thể nêu lên một số nhân vật tiêu biểu sau đây:
Ông Lò Khằm Yên, bí danh là Tạo Lá Dốn từ mường Vén đến giúp Lê Lợi chống quân Minh, đoàn quân của ông đã có công giải phóng đồn Pom Giới do giặc Minh chiếm đóng, giải phóng một vùng rộng lớn gồm mường Xia, mường Mìn, mường Mò cũ, mường Chự khỏi ách đô hộ của giặc Minh. Sau đó đoàn quân tiến xuống các huyện vùng trung du để đánh giặc. Ông đã lấy nàng Ba (con gái thứ 3) của tạo mường Khoòng (huyện Bá Thước ngày nay) làm vợ. Vào cuối thế kỷ XV, khi ông mất, con trai ông là Phạm Bá Mìn trở về cai quản bản mường đã đổi tên mường Mì thành mường Mìn cho đến ngày nay.
Sau đời ông Phạm Bá Mìn còn nhiều người nữa tiếp tục làm tạo mường lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ quê hương như: ông Phạm Lành (bản Chiềng, mường Mìn), ông Phạm Quế (bản Nhài, Sơn Điện) cầm quân đánh giặc cờ vàng ở thế kỷ XIX...
Dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn là dòng họ lang đạo có nhiều đời làm tạo mường ở các mường trong huyện( ). Các thế hệ con cháu trong dòng họ Phạm cũng tham gia cách mạng từ rất sớm. Ông Phạm Bá Phúc là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên ở khu vực 3 xã Tam Lư; Sơn Điện; Sơn Thủy trước đây và là Bí thư Chi bộ đầu tiên của Chi bộ Tam Sơn (ba xã cùng một chi bộ). Sau này ông là Phó Chủ tịch, quyền Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Quan Hóa thời kỳ 1953 - 1957. Nhiều người dòng họ Phạm tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, được tặng huy hiệu 50 - 60 năm tuổi Đảng và đã từng giữ các cương vị chủ chốt của Đảng, chính quyền từ xã đến huyện. Đến nay, dòng họ Phạm có tỷ lệ hộ thoát nghèo khá cao so với dòng họ khác. Trong quá trình phát triển, xây dựng quê hương đất nước, dòng họ Phạm Bá ở Quan Sơn luôn phát huy truyền thống cách mạng, tham gia mọi lĩnh vực công tác ở địa phương, các ngành, các cấp từ xã đến tỉnh. Năm 2009 dòng họ Phạm ở Quan Sơn được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa công nhận danh hiệu “Dòng họ hiếu học tiêu biểu cấp tỉnh”.
Theo dân gian lưu truyền, dòng họ Phạm Bá (Lò Khằm) kiêng ăn thịt chim nộc tắng lo (chim bắt cô trói cột). Tương truyền rằng do ngày xưa có người mẹ vào rừng kiếm củi, hái măng, đào củ mài trong rừng chẳng may bị nạn chết biến thành chim tắng lo. Cứ vào tháng 3 - 4 hàng năm vì thương nhớ chồng con, dân làng mà chim kêu thảm thiết cả ngày lẫn đêm.
Họ Lương: Dòng họ Lương cũng là dòng họ lớn có truyền thống xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước. Từ xa xưa dòng họ Lương đã được phân công làm mo chăm lo sức khỏe, lễ nghi cho nhân dân bản mường.
Dòng họ Lương cư trú hầu khắp các bản, mường, xã trong huyện. Dòng họ Lương là lực lượng lao động dồi dào, có truyền thống cần cù lao động, giao tiếp xã hội tốt. Nhiều thế hệ con cháu, của dòng họ Lương ngày càng trưởng thành, nhiều người đỗ đạt, thông minh, tài trí. Đặc biệt, trong các người làm mo thì người họ Lương làm mo khéo nhất, được nhiều người mến mộ, rước mời khi có đám. Thời Pháp thuộc, thầy mo dòng họ Lương ở mường Mìn từng được Tri châu Quan Hóa mời xuống mo xướng đám tang nhiều người nhà quan, đã tạo thành danh tiếng.
Dòng họ Lương thờ con cọp (hổ). Tương truyền, ngày xưa có một bà mẹ trẻ bế con chưa đầy một tuổi (đang bú) vào rừng đào củ mài để nuôi sống gia đình, chẳng may đào hố củ mài sâu quá, khi cúi xuống lấy củ đã lao đầu mắc kẹt không lên được nữa, bỏ lại đứa con nhỏ trong rừng ngay bên cạnh xác người mẹ. Lúc đó có một con hổ cái đi qua, thấy người mẹ chết dúi đầu xuống hố củ mài, còn đứa con đang khóc lóc thảm thiết bên cạnh mẹ, hổ đến không những không ăn thịt hai người mà còn cho đứa bé bú no nê, dân làng, dòng họ đi tìm hai mẹ con, nhìn thấy cảnh đó liền khấn vái tôn thờ hổ từ đấy.
Dòng họ Lương đến cư trú ở địa bàn Quan Sơn từ lâu đời nhưng đông nhất là thế kỷ XV, khi ông Lò Khằm Yên được Lê Lợi cho ở lại Việt Nam sau chiến thắng quân Minh. Ông đã về nước Lào đưa dân đến cùng xây dựng bản mường, trong đó đông nhất là họ Lương và họ Vi. Các dòng họ này ước thề với nhau, khi đến mường Mìn và các mường ở Quan Sơn là:
Lương lông ệt mo
Lò lông ệt tạo
Vi lông ệt pó ệt mé.
Dịch: 
Lương xuống làm mo
Lò xuống làm tạo
Vi xuống làm bố mẹ( ).
Nghĩa là họ Lương xuống ở Quan Sơn để làm mo chuyên chăm sóc sức khoẻ, lễ đám và đời sống tinh thần cho người dân. Họ Lò xuống đây làm tạo để cai quản bản, mường, chuyên việc đối nội, đối ngoại, hướng dẫn nhân dân xây dựng, bảo vệ bản mường. Họ Vi làm bố mẹ, chuyên chăm lo việc phong tục tập quán, lễ hội bản mường và những phong tục lễ nghi khác trong các gia đình để các thế hệ cùng đoàn tụ, phấn đấu xây dựng gia đình hạnh phúc, bản, mường lớn mạnh.
Họ Vi: Dòng họ Vi cũng là dòng họ lớn, cư trú hầu khắp các bản người Thái trong huyện. Dòng họ Vi có mặt ở địa bàn Quan Sơn từ lâu đời với nhiều dòng di cư đến. Trong đó có cuộc di cư đông vào thế kỷ XV cùng với dòng họ Lò, họ Lương từ nước Lào theo ông Lò Khằm Yên xuống đất Quan Sơn.
Họ Vi ở Quan Sơn có 2 hệ: hệ Vi Khằm và hệ Vi Văn. Hệ Vi Khằm trước năm 1945 nhiều người làm tạo mường, tạo bản, quan bản.
Ở mường Mì (nay là mường Mìn) trước thế kỷ XV họ Vi Khằm làm tạo mường. Khi ông Lò Khằm Yên được Lê Lợi cho đến làm tạo mường Mì, hai dòng họ đã phân chia mường Mì thành hai mường là mường Mì trên do họ Vi Khằm làm tạo, mường Mì dưới do họ Lò Khằm làm tạo. Đến thế kỷ XVI họ Vi Khằm cùng dân mường Mì trên bỏ đất mường Mì di cư vào Tương Dương, Con Cuông (Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp chỉ còn vài hộ ở lại với mường Mì nhưng số hộ này đã đổi họ Vi Khằm thành Vi Văn. 
Dòng họ Vi làm “bố mẹ” nên dòng họ Lò Khằm (Phạm Bá) dù là dòng họ tạo (lang tạo) quyền thế trong pọng, trong mường, nhưng khi tạo mường, tạo pọng hay con cháu dòng họ nhà tạo lên nhà họ Vi thì không được yêu cầu gia chủ trải chiếu, rót nước cho mình. Tạo mường muốn ngồi chiếu phải tự trải lấy, muốn uống nước thì tự rót lấy vì gia chủ là “bố mẹ” của mình, không được sai khiến. Trước đây, nếu người họ Vi, Lương bị vạ thì phạt nhẹ hơn dòng họ khác. Do vậy mối quan hệ của ba dòng họ Lò Khằm, Lương, Vi rất thân thiết, bền chặt và cùng với các họ khác đoàn kết xây dựng bản, mường từ đời này qua đời khác( ).
Trong lịch sử xây dựng bản mường, người họ Vi luôn cần cù lao động, dũng cảm trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai. Dòng họ Vi là lực lượng đông đảo trong mọi hoạt động ở địa phương, từ xa xưa đã có nhiều người thành đạt, nổi danh. Từ ngày có Đảng lãnh đạo, nhiều người trong dòng họ Vi trở thành đảng viên từ rất sớm và giữ cương vị chủ chốt trong các tổ chức Đảng, chính quyền cách mạng từ cơ sở đến huyện. 
Phát huy truyền thống ông cha, hiện nay con cháu dòng họ Vi tích cực lao động sản xuất, học tập. Nhiều thế hệ con, cháu họ Vi tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong lao động sản xuất, do dân số đông nên họ Vi cũng luôn là lực lượng mạnh, đông đảo trong mọi hoạt động ở địa phương từ thời xây dựng hợp tác xã nông nghiệp cho đến nay. Họ Vi luôn là lực lượng quan trọng góp phần xây dựng bản, mường ngày càng phát triển.
Tương truyền trong dân gian, họ Vi kiêng lấy quạt quạt lửa.
Họ Hà: Họ Hà phân bố ở hầu khắp các bản của huyện Quan Sơn, là dòng họ có dân số khá đông. Họ Hà có 2 nhánh: Hà Khún (Khà Khun) và Hà Văn (Khà Lặc).
Họ Hà Khún: Là họ có thế lực, được làm quan bản, tạo pọng. Hà Khún hiểu theo nghĩa khác là Hà Khằm - họ danh giá. Theo tiếng Thái, “khún” chỉ người danh giá hoặc người được xã hội tôn trọng; “khun” với “khằm” đồng nghĩa với quý trọng. Thời trước đây, khi khách đến nhà, chủ nhà chào mời khách vào nhà; sau khi hỏi thăm biết vị khách là họ Hà Khun, Lò Khằm (Phạm Bá) thì mời khách ngồi lên phía trên. Ăn uống trong lễ đám, hai họ này cũng được mời trước vào những mâm cỗ có vị trí quan trọng của gia chủ hay của bản, của mường. Dù nhà có nghèo đến mấy thì gia chủ cũng tìm một lá chiếu đẹp nhất để trải mời khách quý Hà Khun, Lò Khằm ngồi. Trường hợp không có chiếu đẹp thì mới ngồi lên đệm lau, ghế mây trong nhà, nhất thiết không để khách phải ngồi xuống mặt sàn. 
Họ Hà Văn( ): Là họ dân thường thời phong kiến ít khi được tham gia các chức sắc trong bản, trong mường. Tuy nhiên những người có tài, có đức, có tín nhiệm vẫn được dân bầu làm quan. Ví dụ, trước năm 1945 họ Hà Văn ở bản Ngàm, mường Mò làm quan Ngàm Mò.
Cũng như các dòng họ khác, họ Hà có truyền thống yêu nước, cần cù lao động. Trải qua bao biến cố lịch sử, họ Hà vẫn bám bản, bám mường để sinh cơ lập nghiệp, từ đó phát triển đi lên. Con em dòng họ Hà các thế hệ có truyền thống hiếu học, nhiều người có chí vươn lên học hành thành đạt. Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, dòng họ Hà có nhiều người thoát ly gia đình vào bộ đội, công an, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện, dân công hoả tuyến trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu, nhiều người đã hy sinh vì Tổ quốc. Số khác ở hậu phương tích cực lao động sản xuất, công tác, nhiều người nắm giữ các chức vụ quan trọng của xã, của huyện, trở thành vị lãnh đạo địa phương được nhiều người quý trọng.
Dòng họ Hà kiêng ăn thịt chim nộc cột khà (chim bìm bịp), tương truyền ngày xưa, trong lúc chuyển cư đi tìm nơi cư trú đoàn người, dòng họ Hà bị đói khát, không gặp được nguồn nước để uống, khi đi qua một bãi cỏ tranh, cỏ lau rộng bỗng nghe có tiếng bìm bịp kêu. Đoàn người đến đó tìm thì thấy một mó nước trong lành tuôn ra, cả đoàn người được cứu sống. Từ đó họ Hà tôn thờ chim bìm bịp để tưởng nhớ công ơn của nó.
Họ Ngân: Dòng họ Ngân chuyển từ tỉnh Hòa Bình đến, tuy dân số không nhiều như họ Phạm, họ Vi, họ Lương, họ Hà nhưng cũng là dòng họ lâu đời ở Quan Sơn và phân bố ở khắp các xã, thị trấn trong huyện, phần đông ở xã Sơn Thủy, Sơn Điện, Sơn Lư, Sơn Hà, Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân. 
Dòng họ Ngân có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, hăng hái xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ nhiều thế hệ con em dòng họ Ngân đã lên đường tòng quân chiến đấu, đi công an, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến. Số ở lại quê hương cũng tích cực tham gia lao động sản xuất, công tác, nhiều người trở thành cán bộ chủ chốt của huyện. Dòng họ Ngân hiện chiếm 5% dân số của huyện.
Dòng họ Ngân thờ con rắn. Dân gian kể rằng: Ngày xưa, ở Hòa Bình có một bãi rộng lớn tên là Tống Nguống, đồng bào muốn khai hoang làm ruộng nhưng không có nguồn nước tưới. Một hôm trưởng họ tổ chức cúng tế để xin thổ địa giúp cho nguồn nước tưới tiêu thì tự nhiên có một con rắn màu bạc lượn đến nằm trước bàn thờ. Thấy vậy dòng họ mổ lợn, gà cầu khấn ngài rắn giúp đỡ để bãi rộng đó có nguồn nước mà làm ruộng. Cúng xong mọi người ai về nhà nấy, sáng mai ra thăm lại chỗ lập bàn thờ thì có một mó nước phun từ dưới lòng đất lên đủ tưới cho cả bãi. Cả dòng họ hồ hởi khai hoang bãi rộng đó làm ruộng. Từ đó, dòng họ Ngân tôn thờ thần rắn màu bạc( ). Màu bạc người Thái gọi là “ngân”. Ông rắn đó dòng họ gọi là Cháu Ngu Ngân. “Cháu” tiếng Thái có nghĩa là bề trên hoặc thể hiện sự tôn kính đối với vị siêu nhiên nào đó. Ví dụ như: cháu húa (chủ đầu), cháu mường (chủ mường), cháu nặm (chủ nước), cháu đín (chủ đất).
Họ Lữ: Dòng họ Lữ ở Quan Sơn phân bố khắp các xã trong huyện. Trong đó cư trú đông hơn ở các xã Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Thượng, thị trấn Quan Sơn, Sơn Lư, Sơn Hà, Tam Lư, Tam Thanh...
Họ Lò Văn: Họ Lò Văn ở Quan Sơn gốc là họ Lò Khằm ở Hồi Xuân (Quan Hóa) di cư lên Quan Sơn cách đây khoảng 600 năm, tập trung nhiều ở bản Ka Nhăng, xã mường Mìn (nay là bản Ngàm, xã Sơn Điện).
Sau khi chuyển cư lên ở bản Ngàm, đồng bào đã khai là họ Lò Văn để tự cho mình là dân thường, không có ý lên tranh làm tạo, làm quan với dòng họ Lò Khằm ở mường Mìn và các mường khác thuộc Quan Sơn ngày nay. 
Dòng họ Lò Văn có dân số chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số dân của cả huyện. Đồng bào sống tập trung ở bản Ngàm (xã Sơn Điện), một số ở các bản Tân Sơn, Bun, Ban, Na Lộc, Na Hồ (xã Sơn Điện) và một số ít ở các xã Na Mèo, Sơn Thủy, Tam Thanh, Tam Lư, Trung Xuân.
Họ Hoàng: Họ Hoàng ở Quan Sơn xưa kia là người Kinh. Do sinh sống xen kẽ với vùng có nhiều người Thái, họ Hoàng đã kết thân với dân tộc Thái, hòa đồng các phong tục tập quán của người Thái, dần dần tự hòa nhập và khai là người dân tộc Thái nhưng vẫn giữ họ gốc là họ Hoàng.
Hiện nay, họ Hoàng ở Quan Sơn sống tập trung ở xã Sơn Thủy, Na Mèo, một số ở Trung Thượng, Trung Tiến, Tam Thanh, Tam Lư, thị trấn Quan Sơn. Họ Hoàng có truyền thống hiếu học, cần cù lao động, nhiều con em đỗ đạt giữ các cương vị lãnh đạo từ xã đến huyện.
Họ Mạc: Gốc là dân tộc Kinh từ tỉnh Nam Định vào Quan Sơn cách đây trên 400 năm. Do cuộc sống xen kẽ hòa nhập với người Thái nên dần dần đồng bào tự khai là dân tộc Thái, nhưng vẫn giữ họ gốc của mình là họ Mạc.
Họ Mạc ở Quan Sơn sống tập trung nhiều ở xã Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Thượng. Người họ Mạc cũng như các dòng họ khác cần cù lao động, học hành thành đạt.
Các dòng họ khác như họ: Lục, Len, Lộc, Lang tuy dân số ít, chỉ phân bố ở một vài địa phương trong huyện nhưng đồng bào cũng là cư dân đã sống ở Quan Sơn lâu đời và có nhiều cống hiến cho quê hương, đất nước.
Họ Lục, Lộc, Len có một bộ phận trước đây là người Mường ở Mường Bi tỉnh Hòa Bình di cư đến Quan Sơn, sống xen kẽ với bản người Thái, dần dần mọi phong tục tập quán, tiếng nói hòa đồng với người Thái và tự nhận mình là người Thái. Tuy nhiên các dòng họ này vẫn còn lưu truyền lại cho con cháu một số nét văn hóa cổ truyền của dân tộc Mường.
Họ Lang là người Thái từ huyện Thường Xuân chuyển cư lên Quan Sơn do đi bộ đội, công an, biên phòng hoặc công tác ở một số ngành được điều về công tác trong thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ rồi lấy vợ, sinh con ở lại Quan Sơn, nên dòng họ này chỉ khoảng vài chục người ở một số bản trong huyện.
Các họ Đỗ, Lê, Nguyễn, Trần... gốc là người Kinh đến Quan Sơn làm cán bộ, giáo viên, công nhân giao thông, lâm trường,... Sau đó lấy vợ người Thái, khi sinh con khai dân tộc con theo mẹ, còn họ vẫn lấy họ của bố.
6.1.4. Văn hóa vật chất
Đối với văn hóa vật chất, người ta thường chia thành các dạng thức như: ăn uống, nhà cửa, trang phục. Đây là những đặc điểm thể hiện các đặc trưng văn hóa vật chất của văn hóa tộc người rõ nhất.
Khi nói đến văn hóa vật chất của người Thái ở Quan Sơn cũng như nói đến văn hóa tinh thần ở phần tiếp theo, chúng ta chỉ nói đến những khía cạnh đại diện có tính tiêu biểu, những nét đặc trưng mang tính vùng miền, do đó, không thể tách khỏi những đặc điểm chung về văn hóa cộng đồng của người Thái ở Thanh Hóa và Việt Nam nói chung.
6.1.4.1. Ăn uống    
Văn hóa chính là kết quả của quá trình con người tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội, ăn uống là một biểu hiện của văn hóa nên cũng thể hiện sự tương tác này. Ăn uống không chỉ đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người mà còn thể hiện cả nét văn hóa ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của các nhóm tộc người, cộng đồng người hay dân tộc ở từng vùng miền với những điều kiện địa lý tự nhiên cụ thể. Văn hóa ẩm thực cũng phản ánh tập quán của một cộng đồng biểu hiện trong việc ăn uống, và tập quán ấy chịu sự quy định của hoàn cảnh sống (đặc điểm của nền sản xuất, thiên nhiên, lối sống...), bên cạnh đó cũng thể hiện năng lực sáng tạo của cộng đồng trong những hoàn cảnh nhất định. Qua văn hóa ẩm thực, có thể nhận thấy dấu ấn nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp với làm nương rẫy, chăn nuôi và khai thác tự nhiên (săn bắt, hái lượm) trên một vùng rừng núi điệp trùng và một lối sống gắn kết cộng đồng thể hiện rất đậm nét trong văn hóa ẩm thực của người Thái cũng như người Mường.
Món ăn
Nguồn lương thực làm nên bữa ăn truyền thống của người Thái là gạo nếp, nên cách chế biến các món ăn tinh bột cũng chủ yếu là gắn liền với gạo nếp như xôi và cơm lam. Trước kia lúa nếp là đặc sản thơm ngon, cơm ăn chủ yếu là nếp cái đồ xôi nên có câu thành ngữ “Cơm đồ cơm nắm”. Trước đây, người Thái thường đồ cơm (xôi nếp) để vào ép đến lúc ăn thì nắm thành nắm để ăn, ít khi dùng bát. Hiện nay, ăn cơm tẻ nên đồng bào đã dùng bát đũa như người Kinh.
Nguồn thực phẩm chủ yếu là tự túc bằng sản phẩm chăn nuôi gia súc gia cầm và dựa vào hái lượm, săn bắt trong thiên nhiên như kiếm cá, rong rêu dưới sông suối, thịt các loại gia cầm nuôi và săn bắt, măng, nấm, rau tìm kiếm từ rừng. Thức ăn thường thiên về ăn các loài động vật thủy sinh và một số lượng khá nhiều rau trong bữa ăn.
Nguồn cá làm thức ăn hoàn toàn do đánh bắt từ môi trường tự nhiên. Món ăn từ cá được chế biến thành nhiều món khác nhau, trong đó có nhiều món được nhiều người yêu thích như cá nướng gấp (pá pính tập), cá chua... Trước kia món cá chua đựng ống nứa là một sính lễ không thể thiếu trong phong tục hôn nhân của người Thái, giống như trầu cau trong ăn hỏi và cưới xin của người Kinh. Món ăn từ thịt, người Thái có các món như: lạp; nem thịt nai, hoẵng, lợn lòi; thịt gà rừng xào măng; canh uôi nấu với thịt sóc; trứng kiến đen đồ, nướng, nấu canh; tái nộm thịt nai, hoẵng, lợn lòi... Các món canh như: canh uôi cá nướng măng chua, canh măng, canh nấm, canh rêu, canh pịa đắng...
Trong bữa ăn của người Thái thường có thêm món “chẻo” được chế biến từ cá nướng trộn với hạt tiêu, hành, tỏi, ớt. Trong các gia vị không thế thiếu hạt mác khẻn. Người Thái vẫn thích tra mác khẻn vào các món thức ăn cần có gia vị hơn là hạt tiêu. 
Có thể nhận thấy, các món ăn của người Thái mang dấu ấn tự nhiên rất đậm nét (rau rừng, củ rừng, măng rừng các loại, cá suối, rêu đá, hạt tiêu rừng...) và có thể khái quát công thức món ăn truyền thống của người Thái là “xôi - cá - rau”. Hiện nay, cây lúa nếp dần dần được thay thế bằng cây lúa tẻ, theo đó, nguồn lương thực trong bữa ăn cũng thay đổi, từ ăn xôi chuyển sang ăn cơm tẻ. Nguồn cá tự nhiên ngày càng khan hiếm, nguồn thịt do chăn nuôi ngày càng nhiều nên lượng thịt trong mỗi bữa ăn cũng được nhích dần lên. Nguồn cá bây giờ có thêm cá nuôi lồng từ các dòng sông hay các hồ tự nhiên, các ao thả cá do người dân tự đào. Từ đó, cơ cấu bữa ăn của người Thái hiện nay cũng chuyển đổi theo xu hướng chung là “cơm - cá/thịt - rau”. Tuy vậy, những món ăn đặc sắc của đồng bào Thái, Mường vẫn hiện diện trong đời sống hiện nay. Điều đó nói lên rằng tinh hoa ẩm thực Thái, Mường vẫn được bảo tồn, phát triển. Sau đây là cách chế biến một số món ăn. 
Xôi: Món ăn này được đồ từ gạo ngâm rồi đổ vào những chiếc chõ gỗ đặt lên cái miếng bằng đồng. Xôi đồ chín được dỡ ra mâm, quạt cho nguội rồi mới cho lại vào chõ hay các ép đan bằng tre, vầu, giang đậy kín lại cho cơm nóng dẻo, lúc ăn lấy ra mủng, hoặc vẫn để trong ép mở để ăn cả ngày. Mỗi mâm cơm từ hai đến ba mủng tuỳ theo lượng người ăn mà lấy dần ra cho đủ. Xôi đồ là món ăn chính của người Thái, nó luôn có mặt ở tất cả các bữa ăn to nhỏ của đồng bào. Ngày nay, mặc dù đã chuyển sang ăn cơm tẻ, nhưng người Thái, vẫn có thói quen đồ cơm. Có khi bà con thường trộn một ít sắn tươi vào gạo để đồ. Đồ với sắn tươi rất thơm, bùi, đậm đà hương vị núi rừng. Người Thái thường dùng xôi trắng, thỉnh thoảng mới làm xôi màu bằng các loại thuốc cỏ, hoặc quả gấc. 
Cơm lam: Cơm lam là loại cơm được lam chín trong một loại ống thuộc họ tre, thường là ống vầu thơm. Gạo để lam cơm là gạo nếp thơm, dẻo. Gạo được ngâm trước rồi cho vào ống vầu (bánh tẻ) mà thành ruột của nó có một lớp lụa mỏng, lành tính, có mùi thơm. Các ống cơm lam được đặt nghiêng trên ngọn lửa và phải xoay đều cho ống không bị cháy. Khi nước sôi và cạn thì dập lửa, nướng tiếp các ống cơm trên than hồng. Cơm chín lấy ra để nguội, chẻ bóc lóp vỏ cật ở ngoài. Cơm ăn rất dẻo, thơm mà không ngán. Món cơm lam này thường được làm cho sản phụ ăn. Ăn cơm lam chấm với chẻo thảo mộc, chẻo cá tươi có ớt và hạt mác khẻn rất ngon và bổ. Phụ nữ sau khi sinh, ăn khẩu lam trong vòng một tháng. Người Thái có tục đem một ống cơm lam treo ở ngoài rừng, báo cho Then Phắt biết đứa trẻ sinh ra đã thành người. Trong cúng hồn hàng năm đều phải có cơm lam. 
Ngoài hai món phổ biến là xôi, cơm lam, người Thái còn làm các loại bánh bằng nguyên liệu gạo, ngô. 
Bánh ú (kháu vén): Bánh ú là loại bánh người Thái Quan Sơn hay làm để đi thăm thân, như thăm trẻ sơ sinh, thăm người ốm... Bánh ú được làm từ gạo nếp ngon, nếp cẩm, nếp hương dẻo thơm. Gạo nếp làm sạch. Lá chuối tươi (hoặc lá đót) tách thành 08 - 10cm cuốn hình phễu, cho gạo vào phễu lá; gấp phần phễu trên lại dùng lạt vầu (hoặc giang) buộc cuốn thắt, sau đó cho bánh vào ngâm trong nồi hoặc chậu khoảng 30 - 40 phút rồi đem luộc. Khi thấy bánh mềm và có mùi thơm là chín. 
Bánh chưng đơn (kháu tôm piêu): Đây là loại bánh mà người Thái ở Quan Sơn hay làm để đi hỏi vợ; bánh chưng được làm từ gạo nếp ngon, nếp cẩm, nếp hương dẻo thơm. Gạo nếp làm sạch. Lá dong tươi rửa sạch, lau khô, sau đó lấy gạo đã ngâm cho vào giữa lá, gấp hai bên lại sao cho đường gân bánh ở giữa rồi gấp đầu bánh lại và dùng lạt vầu (hoặc giang) cuốn theo thân bánh như bánh ú, bánh phải đều tăm tắp. Cho bánh vào ngâm trong nồi hoặc chậu khoảng 30 - 40 phút mới đem luộc, khi thấy bánh mềm và có mùi thơm là chín. Lấy phần lạt để dài buộc lại từng chùm 10 cái. Khi đi ăn hỏi theo tục lệ mà mang cho đủ bánh (20, 40, 60 hay 100 cái). Bánh trưng đôi (kháu tốm cộp): là lấy bánh chưng đơn buộc lại từng cặp.
Cá chua (pa xốm). Món ăn này được người Thái sử dụng rất phổ biến. Cá tươi cắt lát, làm sạch lớp màng đen ở bụng cá, để ráo nước, trộn với muối, gạo tấm hoặc cơm nguội để làm chua sau đó cho vào ống, chĩnh hay bình tùy thuộc lượng cá và để từ 5 - 7 ngày. Có thể dùng cá chua để rim ăn với xôi đồ vừa tiết kiệm vừa ngon cơm. Đây cũng là lễ vật không thể thiếu trong phong tục hôn nhân của người Thái. 
Cá ướp muối nướng: Các món nướng, theo tập quán của người Thái, là món ăn cao cấp. Trước khi nướng thịt hoặc cá phải ướp gia vị cho đủ độ mới cho vào gắp ba que bằng cây nứa hoặc vầu bánh tẻ, gắp làm to bằng ba ngón tay. Loại gắp ba que có ưu thế là nướng thịt cá chín đều, thơm ngon. Khi nướng phải nướng cho cá khô và chín đều, không được để cá bị cháy sém hoặc chín ép. 
Đối với cá nướng có ba cách. Cách thứ nhất là mổ cá, ướp gia vị, lấy que nhỏ thọc vào miệng rồi xuyên hết thân cá để khi nướng cá không bị gãy, nếu cá to thì cắt miếng, lấy que xuyên theo sườn cá để cá không bị rơi rụng lúc chưa chín hẳn. Cách thứ hai là gói lá dong kẹp vào gắp để nướng. Cách thứ ba, cá mổ sau lưng, cho gia vị vào trong, sau đó gấp đôi theo chiều ngang con cá rồi cho vào gắp. Nướng kiểu này tiếng Thái gọi là “pa píng tập”. 
Cá chủm đồ: Nguyên liệu gồm cá con rửa sạch bỏ vào chậu nhỏ, hoa chuối rừng thái mỏng ngâm nước mẻ và muối rồi rửa sạch, rau dền đất rửa kỹ thái nhỏ, gạo nếp vừa đủ, thêm mác khẻn, muối và mì chính. Tất cả trộn đều, ướp khoảng 15 - 20 phút thì lấy lá dong đùm, dùng lạt để buộc sau đó bỏ vào hông đồ đến khi thấy gạo nếp chín dẻo là được. Đây là món ăn thơm ngon, thường được chế biến mỗi khi nhà có khách quý.
Cá chua: Cá to nhỏ đều làm chua theo cách sau: Cá to mổ bụng rửa sạch, lược thịt ra rồi thái miếng (mỏng hoặc dày đều được), cho thính gạo hay thính ngô và các gia vị khác như muối (không bỏ mì chính), lá đinh lăng vào. Tất cả trộn đều cho vào ống nứa hay vại sành, rắc một lớp lá đinh lăng lên trên rồi lấy lá dong hay lá chuối bịt lại để trong khoảng 20 ngày trở lên là ăn được. Món ăn này ăn cùng với gừng lát, lá chanh, lá sung và các loại rau thích hợp.
Cá trong ngày Tết: Cá là món ăn phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người Thái và trong những ngày Tết, cá là món ăn chính không thể thiếu. Thông thường, cứ đến ngày 28, 29 tháng Chạp là dân bản đổ ra sông, ra suối bắt cá. Tất cả những con cá bắt được không kể to hay nhỏ, đều được coi là thần suối và được mang về làm cỗ cúng. Con cá to nhất được chọn để riêng. Đó là con cá đầu mâm cỗ nên được nướng nguyên con. Số cá còn lại được chế biến thành các món ăn riêng của vùng này như: cá đồ, cá sấy, cá nướng, cá độn cơm, cá mọc, cá gói vùi tro bếp, cá lạp... Món cá lạp thường dùng để đãi khách quý mỗi khi Tết đến xuân về. Từ con cá người Thái có thể chế biến thành ba món: món lạp vừa béo vừa cay, vừa có vị chua chát của lá rừng, món chẻo để chấm xôi nóng và bát canh chua cá.
Cá mọc: Món ăn này dùng làm nhân bánh bột gạo nếp. Thịt cá băm nhỏ giống như mọc thịt. Bột nếp được chuẩn bị kỹ như làm bánh dẻo. Mọc cá gói bên trong bột nếp, sau đó xếp từng lượt vào chõ xôi đồ từ 30 đến 40 phút. Có loại mọc 3 cá, 5 cá, 7 cá, 9 cá (số lượng cá dùng làm mọc nhân bánh). Cá nướng được kẹp thành từng kẹp bằng que tre rồi đem nướng than củi gỗ. Mỗi kẹp cá từ 3 - 5 - 7 - 9 con cá. Sau khi nướng xong thì đem cá đồ lại. 
Cá lam ống vầu non: Cá tươi nhỏ (mỗi con không quá 0,5kg, thường là cá bắt ở sông, suối) trộn cùng với các gia vị như: mác khẻn, lá hành tươi, thì là, lá gừng, ớt, mì chính, muối. Nếu không có mác khẻn thì dùng bột hạt dổi thơm hoặc bột vỏ dổi thơm. Sau khi trộn với các gia vị thì cho cá vào ống vầu non tươi (chiều dài tùy ý) dưới đáy lót lá xịa (lá sả) sau đó lấy lá xịa nút ống lại (không cần cho nước vào ống) rồi đem hơ trên than hồng. Xoay ống nhiều lần để cá không bị cháy và chín đều. Hơ lửa khoảng 50 - 60 phút, khi thấy ống vầu mềm đều, hơi nước trong ống bay ra là món ăn đã hoàn tất. 
Chịn giáng (thịt sấy khô trên gác bếp): Trước đây đồng bào có tập quán nếu có nhiều thịt sẽ để dành một phần treo dưới gác bếp. Đây là cách cất giữ thực phẩm độc đáo. Thịt vừa được khói bếp hun vô trùng vừa được hơi nóng sấy khô nên để bao lâu cũng được (có khi để 2 - 3 năm). Chịn giáng khi đem ra ăn thường nướng lại trên than cho giòn, hoặc đồ trong chõ cho chín. Thịt khô được dùng trong ngày thường hoặc ngày lễ tết. Thịt trâu, bò khô là món thơm ngon và phổ biến. Thịt rửa sạch cắt thành miếng, dài khoảng 20cm, sau đó xâu vào que nứa gác trên bếp. Sau 2 - 3 tháng (có thể lâu hơn càng ngon) lấy những xiên thịt khô xuống rửa sạch, gói vào lá dong hoặc lá chuối rồi vùi vào tro nóng. Khi ăn chấm với món chẻo làm từ gừng, măng chua, khế... Thịt trâu, bò khô có thể nấu với các loại lá như lá lốt, gừng, sả, hẹ... Chỉ cần đun nước sôi, cho thịt vào đến khi chín nhừ thì cho rau, gia vị.
Lạp: Món này ăn được chế biến từ thịt nạc ngon nhất của trâu, bò, dê, hươu, nai (da trâu, bò, nai, hoẵng... cũng có thể làm lạp) theo cách “ăn thịt sống” (Món lạp chín gọi là lạp xúc, được làm từ thịt băm nhỏ đã rang chín, món này dành cho những người không thích ăn sống, người già, trẻ nhỏ, phụ nữ). Thịt nạc (không có mỡ, gân) được làm sạch, thái mỏng, ngâm nước muối hoặc nước lá ổi một lúc lâu rồi mang ra vắt kiệt nước, băm nhỏ, bóp với nước măng chua. Dùng các loại gia vị như: tỏi băm, rau răm, rau mùi tàu, rau mùi, rau húng... thái nhỏ trộn vào. Thịt sống đã được nước măng chua “làm chín” nên dậy mùi đặc trưng. Lạp được xem là một món ăn sang nên người ta thường thưởng thức món ăn này trong những dịp lễ, tiệc lớn.
Chịn xổm (thịt chua): Món ăn này được làm từ các loại thịt trâu, bò, hươu, nhím, nai, lợn. Cách chế biến thịt chua cũng giống như cá chua: Thái miếng nhỏ, trộn muối nhồi chặt vào ống nứa khô hoặc vại sành, sau đó phủ thính lên trên, bịt chặt miệng ống, để khoảng một tuần là có thể ăn được. Ngoài thịt là chính còn có các chất xúc tác cho quá trình lên men như thính gạo nếp và riềng giã nhỏ. Có thể muối trong vại, ăn dần trong vài tháng mà không lo hỏng. Trong các tiệc vui của người Thái, đây là món ăn khoái khẩu thường dùng để uống rượu. Thịt mỡ (lợn) thái nhỏ hoặc to tùy ý trộn với cơm nguội (cơm và thịt bằng nhau) để chừng 15 - 20 ngày trở lên cơm nguội hóa thành mẻ ngấm vào miếng thịt, có thể dùng để nấu, hoặc xào với rau dớn. Đây cũng là món ăn đặc trưng của người Thái.
Canh uôi thịt gà với măng chua: Gà ri tơ khoảng 0,6 - 0,8kg làm thịt xong chặt miếng nhỏ như đầu ngón tay trỏ, tay út. Măng chua (tươi hoặc khô) khoảng nửa bát con và gia vị trộn vào với thịt rồi bắc lên bếp lửa xào cho săn thịt gà sau đó cho nước sôi vào với tỷ lệ 1 thịt 4 nước. Sau khi đổ nước thì cho khoảng 2/3 bát ăn cơm tấm gạo nếp vào đảo đều (nếu không có tấm gạo thì dùng gạo ngâm sơ rồi giã nhỏ (không giã thành bột)). 
Canh uôi với thịt gà không có măng chua: Gà ri tơ khoảng 0,6 - 0,8kg chặt miếng nhỏ như đầu ngón tay trỏ, tay út. Trộn thịt gà với mác khẻn, mì chính, muối (hoặc hạt nêm) sau đó bắc lên bếp lửa xào cho săn thịt. Khi thịt đã săn, cho nước sôi vào với tỷ lệ 1 thịt 4 nước rồi cho tấm gạo vào đảo đều. Khi gạo và thịt đã chín thì cho lá hành tươi, lá thì là thái nhỏ vào.
Canh uôi có thể nấu với thịt trâu, thịt bò khô, thịt sóc, thịt vịt, thịt dúi tươi, khô, cá tươi, cá khô treo bếp, thịt hoẵng, thịt nai, thịt lợn lòi khô, thịt chim...
Các món ăn từ rau, măng: Người Thái khai thác được từ tự nhiên nguồn thực phẩm phong phú. Riêng về măng đã có măng nứa, măng tre, măng luồng, măng vầu, măng giang, măng đắng, trong đó măng nứa, măng tre, măng luồng, măng vầu phổ biến hơn cả. Đồng bào Thái chế biến măng thành món ăn theo nhiều cách khác nhau. Trong các món măng của người Thái, măng chua là một món ăn phổ biến. Măng chua có thể nấu canh với cá, ếch, nhái, thịt gà, thịt vịt, thịt lợn; hoặc xào với thịt vịt bầu, thịt trâu, thịt bò, thịt thú rừng (nai, hoẵng). Ngoài măng ra, hoa chuối rừng, sau má, rau dớn, rau tàu bay, rau bợ, rau cải dại, lá chua rừng, lá môn nước... cũng thường góp mặt trong bữa ăn của người Thái. Không chỉ khai thác thực phẩm từ thiên nhiên, người Thái còn trồng ở vườn nhà, nương, rẫy nhiều loại rau, củ, quả để làm phong phú bữa ăn như: các loại rau cải, rau dền, bầu, bí, mướp đắng, này này... Người Thái chế biến món ăn từ rau, củ, quả đơn giản, thông thường được luộc (măng tre, măng vầu, rau tàu bay, rau dớn), nấu canh (măng mây, măng tre, măng vầu, hoa chuối rừng), muối chua (măng, rau), ăn sống (các loại rau), làm nộm (rau tàu bay, hoa chuối rừng, ngọn sắn). Nộm rau, rau đồ là những món ăn đặc trưng của người Thái. 
Trong các món canh măng của người Thái, món măng nấu với nhái là một món ăn phổ biến. Nhái bắt trên rừng, ngoài rẫy, trong các bờ khe, dọc suối, trên đồi mía về mổ bụng, vứt ruột, rửa sạch. Măng củ thái mỏng; măng ống luộc chín xé nhỏ, hoặc măng chua... Đun nước đến lúc sôi thì bỏ măng và nhái vào nồi cùng với muối ớt, lá lốt, nước mắm... Khuấy đều cho nhái ôm măng, măng ôm nhái. 
Thức chấm: 
Thức chấm là thứ không thể thiếu trong cơ cấu bữa ăn của người Thái, món ăn ngon hay không phụ thuộc rất nhiều vào thức chấm. Trước đây, trong những lúc khó khăn, bữa ăn chỉ có xôi hoặc cơm tẻ, ngô với rau đồ, thế nhưng chỉ cần có một món chấm phù hợp bữa ăn trở nên ngon hơn. Người Thái tạo ra nhiều loại thức chấm có nguồn gốc từ nhiên nhiên khác nhau: 
Các món chẻo rất đa dạng, có thể dùng các loại gia vị để làm chẻo. Các gia vị: ớt giã muối, mì chính, củ kiệu, ớt, gừng, riềng, sả, rau răm, lá quất hôi, khế chua, măng chua, lạc rang, vừng rang, nấm... đều có thể làm chẻo để chấm rau, củ, thịt, cá, xôi hay ăn với cơm tẻ. Đôi khi thịt, cá cũng được băm, nghiền nát để làm chẻo như chẻo cá nướng, chẻo thịt nướng... Mỗi loại chẻo hợp với một số loại món ăn như chẻo cá nướng ăn với rau cải non; chẻo thịt nướng dùng để chấm măng luộc, rau đồ (hoặc luộc); chẻo sả, kiệu chấm cà tươi hoặc cà luộc; chẻo làm từ thịt để chấm rau rừng. Người Thái rất thích ăn chẻo môn lá khô, chọn lá môn non từ những cây môn mọc ở bờ sông, suối, ao đem về phơi nắng khoảng 2 ngày, giã nhỏ, bỏ vào ống nứa lam cho chín (hoặc đồ) sau đó đem phơi khô cho vào ống cất lên gác bếp. Khi làm chẻo đem môn khô cho vào nước ngâm, vớt ráo nước bỏ vào giã nhỏ cùng hạt đu đủ đã nướng chín và gia vị vừa ăn. Chẻo môn lá khô dùng để ăn cho đậm miệng, khử tanh, hoặc chấm rau rừng. 
Thông thường người ta giã muối với ớt, óc quả mác kinh, mác ten, cá nướng, thịt gà, tương, hạt gấc, hạt mít khô... và hạt mác khẻn (hạt tiêu rừng) đã được rang hay nướng chín thành một thứ chẻo thông dụng nhất. Nói thông dụng nhất vì loại chẻo này có mặt thường xuyên trong các bữa ăn và các nguyên liệu chế biến ra nó rất sẵn, rất dễ tìm kiếm.
Chẻo bao gồm nhiều loại: Chẻo sả gồm có sả, muối, ớt giã nhỏ, trộn đều. Chẻo gừng có gừng, muối, ớt. Chẻo măng chua cũng được chế biến theo kiểu như vậy. Chẻo cá nướng có cá nướng giã trộn với muối và ớt. Trong các loại chẻo thì chẻo khoai môn là được ưa thích nhất. Cây khoai môn thuộc họ khoai sọ thường mọc ở các dọc đất hẹp có nước đọng hay dọc các suối. Người ta chọn hái các lá xanh và non đem về phơi cho héo, rồi cho vào cối giã kỹ, sau đó cho vào chõ đồ chín và đem phơi khô. Để bảo quản được lâu người ta cho lá môn đã chế biến vào các ống nứa khô, các loại đồ đựng đan bằng nan tre, nứa hay gói trong các mo cau khô và gác lên gác bếp. Khi cần dùng, lấy lá môn khô ra ngâm với nước sôi vài phút rồi giã trộn với muối, ớt, hạt quả gấc và hạt mác khẻn. Món tổng hợp này mà thành phần chính là chẻo môn dùng chấm xôi, chấm cá, chấm thịt đều ngon. Đặc biệt chẻo môn lá thứ khử tanh rất công dụng. Người Thái khi nấu canh cá thường cho chẻo môn vào để khử mùi tanh.
Đồ uống: 
Tập quán của người Thái xưa, khi có khách đến chơi nhà, trước tiên là mời khách uống nước chè, chào hỏi khách, sau đó là mở chĩnh rượu cần. Trước khi uống phải mời thần đi bảo vệ khách (người Thái quan niệm, khách quý, khách trên đi sẽ có thần đi theo nên phải mời thần uống trước) sau đó khách cùng chủ nhà và một số anh, em trong bản đến cùng tiếp khách với chủ nhà mới uống. Mọi người dù ở cấp bậc nào cũng phải tuân theo luật uống rượu đã có từ lâu, đó là nếu uống không cạn thì bị phạt từ 1 đến 2 còi liên tục. Tục ngữ có câu: “Nhằng láy pặt khún tó mứ kín láu, nhằng láy khắm cấu tó mứ tặt phốm” nghĩa là, còn được làm quan trên có ngày uống rượu, còn được sờ đầu có ngày cắt tóc. Sau khi uống rượu cần xong, chủ nhà mời khách bữa cơm thân mật. Mâm cơm có đủ cơm, canh, thịt, cá và rượu nước. Mọi người vừa ăn vừa chúc tụng nhau rất vui vẻ, thắm tình anh em, chủ khách. Hiện nay, tục uống rượu cần chiêu đãi khách hầu như không còn phổ biến như xưa.( )
Rượu cần là món đồ uống vừa thiêng liêng vừa đời thường vừa sang trọng, hiện hữu trong đời sống văn hóa của nhiều tộc người thiểu số. Người Thái coi rượu cần là thứ đồ uống vừa mang tính chất lễ nghi vừa thể hiện tình cảm thân mật, chân thành. Trong các sự kiện quan trọng của đời sống như mừng nhà mới, cưới xin, hội hè, bạn bè gặp nhau... bao giờ cũng phải có rượu cần. Trong các cuộc rượu có tính chất nghi thức, mọi người phải tuân thủ những quy định chặt chẽ. Những người cao tuổi, những người có cương vị xã hội, khách quan nơi xa đến là các đối tượng được “ưu tiên” cầm cần uống lượt rượu đầu. 
Trong gia đình người Thái, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, đều có vài ba chiếc sừng trâu được gọt đẽo cẩn thận làm dụng cụ đong nước trong các cuộc rượu. Khi uống rượu cần (trừ lễ tang), người Thái thường hát mời rượu. Người ta có thể vừa uống rượu vừa hát đối đáp, thi tài bằng các lời hát có sẵn hay sáng tác ngẫu hứng. 
Rượu cần trước kia có mặt trong tất cả các nghi thức cúng lễ của người Thái: từ Tết Nguyên đán đến lễ cơm mới, đến lễ hợp vía, tác thành hạnh phúc cho đôi trai gái, từ việc cúng gọi hồn trẻ trở về đến các nghi lễ cúng ma ruộng, ma nương. Trong các sự kiện này, có thể không cần rượu siêu nhưng rượu cần thì nhất định phải có, trừ lễ tang. 
 Rượu cần đón khách xa, rượu cần thờ cúng tổ tiên, rượu cần dùng trong đình đám: cưới xin, ma chay, mừng nhà mới, lễ hội... Nhìn vào số lượng cần hút (vòi hút trong ché rượu) là biết người Thái sử dụng chúng vào mục đích nào( ). Số cần lẻ (3 - 5 - 7 - 9) thường là cúng ma. Cần rượu sử dụng trong lễ hội, tiếp khách có số lượng chẵn (4 - 6 - 8 - 10 - 12).
Chỉnh rượu cần trong các lễ tục, lễ hội được dân bản chuẩn bị rất công phu. Chỉnh rượu cần to nhỏ, ngon ngọt thể hiện uy quyền và thế lực của bản, đồng thời trong thế giới tâm linh nó là một dự báo về tương lai - một năm mới phía trước may mắn, tốt lành hay thiên tai, trắc trở... 
Nếu là việc bản thì thông thường vào đầu tháng 11 âm lịch, công việc chuẩn bị làm rượu cần cho các lễ tục, lễ hội bắt đầu. Già bản chịu trách nhiệm phân công các gia đình chuẩn bị nếp cái, vỏ trấu, men lá (rượu cần ngon ngọt hay không phụ thuộc vào men lá). Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị đầy đủ, già bản chọn ngày, giờ tốt để tiến hành cho ngâm ủ. Nhất là ngày cho nguyên liệu vào chĩnh( ) nén chặt. 
Trước đây, dân bản thường lấy nước ở mó nước hoặc ở khe suối để đổ vào chĩnh rượu. Dụng cụ lấy nước là vài ba cái ống bương để vác nước về; một cái chậu hay nồi để đựng nước đổ từ trong ống ra; một cái “còi” làm bằng sừng trâu hoặc sừng bò rừng. Sừng làm “còi” được đục một lỗ nhỏ ở phía đầu sừng để thả rượu; một cái gáo (nay là ca nhựa) để múc nước đổ vào “còi”. Thời gian uống rượu cần được tính bằng thời gian đổ nước đầy “còi” và thả nước chảy ra từ cái lỗ nhỏ đầu sừng. Đó cũng là lượng rượu cần khi uống từng cặp với nhau. Cần rượu làm bằng cây trúc, tre dài khoảng 1 - 1,5m được hơ lửa, vuốt thẳng, đục thông ruột sau đó uốn cong (vì vậy mới gọi là rượu cần). 
Rượu cần cũng là lễ vật người Thái dùng để cầu cúng thần linh, cầu mong thần linh phù hộ giúp đỡ con người. Rượu là tinh hoa của trời đất ban tặng cho con người, người Thái rất nâng niu quý trọng. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng uống hết mình mà tùy khả năng của mỗi người để uống có chừng mực. Khi người uống không muốn uống nữa sẽ cất lời khặp từ chối khéo léo, vừa không làm mất lòng người mời, vừa thể hiện tình cảm, thái độ của mình. Đây là một nét văn hóa thể hiện mức độ “chừng mực” trong văn hóa rượu cần của người Thái( ). 
Nước uống hàng ngày: Đồng bào thường uống nước chè khô tự làm. Người Thái gọi là “chè ly”. Sau câu chào khách “Tán ma” khi khách đến nhà, đồng bào thường pha chè mời khách, vì vậy, một số người gọi vui là chè “Tán ma”. Cây chè được trồng ngay trong vườn nhà, bờ rào, trên đồi. Khi chè ra lộc thì hái về vò nhuyễn rồi ủ, phơi nắng để dùng dần. Ngày trước, nhiều bản làng còn duy trì tục uống chè cộng đồng. Các gia đình lần lượt thay nhau chuẩn bị nồi nước chè thật ngon; buổi tối, cơm nước xong, mọi người trong bản tới uống chè, hút thuốc, trò chuyện, ca hát... Ngay cả việc hút thuốc lào cũng mang tính cộng đồng rất đặc sắc. Khi một điếu thuốc lào được đốt lên, mọi người sẽ chuyền tay nhau ống điếu theo vòng tròn cùng hút, cùng chia sẻ. Uống trà, hút thuốc lào cũng là những sinh hoạt gắn kết con người với nhau trong một cộng đồng thân ái.
Ngoài nước chè, đồng bào còn uống nước nấu từ vỏ, thân, rễ, lá của các loại cây rừng. Các loại nước này rất tốt cho sức khỏe, nhất là cho người ốm, người già, phụ nữ mới sinh và trẻ em.
Hiện nay, loại nước uống nấu từ các loại cây rừng hiếm hơn trước vì rừng bị khai thác nhiều và cũng chỉ có một số người lớn tuổi mới biết rõ về chúng. Mặc dù vậy, loại nước uống này vẫn được chuộng nhất và là nước uống hàng ngày trong một số gia đình.
6.1.4.2. Trang phục truyền thống
Mỗi một dân tộc đều có sự thể hiện trang phục khác nhau, do nếp sống và sinh hoạt văn hóa chi phối. Khi lên vùng Tây Bắc hay qua miền Tây Thanh Hóa, nét đặc trưng ở những bản mường của đồng bào dân tộc Thái là dựng nhà nằm dài theo các dòng suối, trên những gò đất cao, phía sau là núi và phía trước là cánh đồng lúa( ). Trong không gian cảnh quan văn hóa đó, nổi bật giữa màu xanh của cây cỏ núi rừng là sắc màu tươi tắn và gần gũi của những bộ trang phục.
Có thể nói, tìm hiểu trang phục Thái là giải mã những thông tin về văn hóa Thái gắn liền với nó. Theo đó, trang phục của đồng bào Thái có vai trò quan trọng trong đời sống tộc người. Trước hết, trang phục Thái là sản phẩm của quá trình lao động, thể hiện sự cần cù, thông minh và sáng tạo. Nó được hình thành trong một môi trường tự nhiên, xã hội và bối cảnh lịch sử cụ thể. Đó là kỹ thuật tiểu thủ công tinh xảo gắn với xã hội tiểu nông và nền kinh tế tự cung tự cấp. 
Để có được sản phẩm đồ mặc, họ phải trải qua rất nhiều quá trình lao động miệt mài, trong đó hai khâu quan trọng nhất là trồng bông và dệt vải. Việc trồng bông của người Thái cũng phải tiến hành theo tập tục: chọn đất, chọn ngày lành tháng tốt để gieo hạt, thu hoạch. Khi có được bông rồi thì thực hiện các việc chọn, nhặt bông, cán bông bật bông, quấn bông, se sợi... Bên cạnh giá trị vật chất thì trang phục của người Thái còn thể hiện những giá trị của bản sắc văn hóa tộc người. Thông qua trang phục, đặc biệt là những hoa văn tinh xảo có được bằng nghề dệt thủ công cho thấy tri thức bản địa của người Thái về lĩnh vực này đã đạt đến trình độ cao( ). 
Như vậy, trang phục có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của con người, từ sinh hoạt đời thường đến các dịp lễ hội, tết trong gia đình và toàn cộng đồng. Có thể nói, trang phục có ý nghĩa lớn đối với người Thái, nó không chỉ thể hiện nhu cầu đơn giản là “mặc” mà còn gắn bó trong các nghi lễ có ý nghĩa thiêng liêng và sâu sắc. Còn giữ được những nét hoa văn trên trang phục là còn giữ được những nét văn hóa của người Thái.
Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không thể không giữ gìn trang phục. Trang phục có từ lâu đời và gắn bó mật thiết với cuộc sống của con người tạo nên những nét rất riêng, rất độc đáo. Có thể nói, việc làm ra những bộ trang phục không chỉ đáp ứng nhu cầu mặc của các thành viên trong gia đình mà rộng hơn còn góp phần phát triển kinh tế hộ. Hơn thế nữa, những bộ trang phục Thái ngày nay còn góp phần quảng bá văn hóa của dân tộc tới du khách và bạn bè trên thế giới.
Trang phục là một nét bản sắc văn hóa tộc người cần phải giữ gìn và phát huy giá trị của nó trong bối cảnh hiện nay. Trong quan niệm chung của người Thái, vải vóc bao hàm nhiều ý nghĩa: tượng trưng cho phái nữ, cho cái đẹp; vật dụng dùng suốt cả đời người; tượng trưng cho sự giàu sang trong xã hội truyền thống; phản ánh trình độ kỹ thuật của nghề thủ công. Dó đó, các sản phẩm trang phục hay còn gọi là đồ mặc thể hiện đặc trưng văn hóa tộc người rõ nét nhất và biểu hiện đặc trưng nhất ở bộ nữ phục. 
Về phương diện giữ gìn các giá trị văn hóa tộc người thông qua trang phục thì phụ nữ là những người đại diện tiêu biểu. Đó là lý do mà giới nghiên cứu khi đề cập đến trang phục dân tộc Thái thường đề cập đến trang phục của phụ nữ.
Với người Thái, bộ nữ phục Thái Tây Bắc khác biệt khá nhiều so với nữ phục Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An. Nhìn vào bộ nữ phục Thái Tây Bắc người ta có thể phân biệt được đó có phải là người Thái hay không và họ thuộc về ngành Thái nào (Thái Đen hay Thái Trắng). Trong bộ nữ phục Thái Tây Bắc, chiếc áo và chiếc khăn đội đầu thể hiện chức năng phản ánh đặc điểm văn hóa trang phục rõ nhất. Áo của phụ nữ Thái Tây Bắc bó sát người. Nổi bật trên nền áo sửa cóm là những hàng cúc bạc, cúc đồng. Cúc bạc là sang trọng nhất, bộ cúc này có tên là mác pém. Ở Tây Bắc, áo của phụ nữ Thái Đen có cổ cao, tròn bó khít lấy cổ, màu áo chủ yếu là đen, nâu. Áo của phụ nữ Thái Trắng có cổ liền với nẹp áo, để hở cổ, nẹp áo viền đen, màu áo chủ yếu là màu trắng, màu hồng, xanh lơ. 
Với người Thái ở Thanh Hóa, áo có hai kiểu cơ bản là kiểu xẻ ngực và kiểu chui đầu, kiểu chui đầu là kiểu cổ hơn. Từ đó cho thấy những chiếc áo của người Thái ở Thanh Hóa còn giữ được những yếu tố cổ xưa. Cúc áo của người Thái xứ Thanh thường đơm các loại cúc phổ thông, không dùng kiểu cúc mác pém như người Thái ở Tây Bắc. Phụ nữ Thái ở vùng Quan Sơn thường mặc áo cóm, chui đầu, thân ngắn ngang lưng, xẻ hai bên vai, chỉ có một khuy hoặc buộc dây vải, nền vải có thể màu đen, xanh chàm, nâu nhạt, nhưng kỵ màu trắng. 
Khăn đội đầu của phụ nữ Thái Tây Bắc gọi là piêu và chỉ có ở phụ nữ Thái Đen. Khăn piêu có nền màu đen, hai đầu khăn thêu các hình hoa văn, đặc biệt, những chiếc cút piêu được đính thành chùm ở mép đường viền của khăn. Phụ nữ Thái Trắng không đội piêu mà thường đội khăn làm từ các chất liệu như bông hoặc len để giữ tóc, cuốn tóc. 
Phụ nữ Thái ở Thanh Hóa cũng có khăn trùm đầu. Hai đầu khăn cũng thêu các hoa văn, nhưng không có các cút piêu và đây là một nét khác biệt. Khăn đen hai đầu thêu hoa, khi đội khăn đưa một đầu thêu về phía trước, một đầu thêu về phía sau. 
Váy của phụ nữ Thái Đen và Thái Trắng ở Tây Bắc đều là một màu đen không thêu dệt hoa văn và dài chấm gót. Còn váy của phụ nữ Thái ở Thanh Hóa được trang trí, thêu dệt hoa văn. Váy của phụ nữ Thái Thanh Hóa có thêm phần cạp váy, và đầu váy cao ngang nách, ôm lấy bộ ngực. Một bộ phận phụ nữ ở các huyện như Quan Hóa, Quan Sơn, Thường Xuân mặc váy dệt hoa văn toàn thân gọi là xỉn mục. Váy của phụ nữ nhóm Tày Dọ (ở Thường Xuân) có màu đen từ cạp váy xuống quá đầu gối còn phần dưới đầu gối là chân váy (tỉn xin) được thêu hoa văn rất công phu. Phần lớn phụ nữ Thái ở các huyện Bá Thước, Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn mặc giống phụ nữ Mường. Phụ nữ mặc áo cóm (áo khóm) (xứa còng) phổ biến là xanh xỉ, màu đen, xanh chàm. Váy mặc cao lên đến ngực, hầu hết là màu đen. Loại váy sang đẹp được thêu dệt, trang trí cầu kỳ, công phu thành các phần: chân váy thêu dệt hoa văn, thân váy đen, eo váy hoa đỏ, đầu váy hoa thổ cẩm.
Phụ nữ Thái ở cả Tây Bắc, Thanh Hóa và Nghệ An đều thích mang theo bộ xà tích, nó như là một thứ trang sức làm cho bộ váy áo thêm duyên dáng, lịch lãm. Thắt lưng của phụ nữ Tây Bắc và Thanh Hóa đều làm bằng chất liệu tơ tằm hoặc vải dệt, điểm trang thêm chùm dây xà tích bạc trắng, quả đào, nhưng đuôi thắt lưng người Thái Thanh Hóa để vuông và dài hơn. 
Như vậy, váy áo của phụ nữ có nhiều điểm khác biệt giữa người Thái ở Thanh Hóa và Tây Bắc. Nhìn tổng thể, váy áo của phụ nữ Thái (nhóm Tày Mươi) ở Thanh Hóa có nhiều nét giống với phụ nữ Mường ở Thanh Hóa. Ở một số vùng như Lang Chánh, Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, nếu chỉ nhìn vào hình thức trang phục bề ngoài của phụ nữ, đôi khi rất khó phân biệt được đâu là người Thái, đâu là người Mường.
Từ những nét tổng quan như trên về trang phục của phụ nữ Thái ta sẽ nhận thấy trang phục phụ nữ Thái ở Quan Sơn có cái chung của phụ nữ Thái ở Thanh Hóa và cũng có nét riêng. Người Thái ở Quan Sơn cư trú ở 6 mường, trong cái chung của cả 6 mường ấy, mỗi mường lại có những sắc thái riêng do những yếu tố về vị trí địa lý và mối quan hệ giao thoa văn hóa trong nội vùng và ngoại vùng chi phối. 
Trang phục của phụ nữ Thái ở mường Xia, mường Mìn thuộc vùng cao biên giới gần giống nhau và có nét giao thoa với trang phục phụ nữ nước Lào. Đồng bào thường dệt nhiều kiểu váy hoa văn sặc sỡ. Trong đó có váy “mục cọc” hay nói cách khác là váy “xín mục chệt”. Phụ nữ các mường này thường mặc chân váy trên mắt cá chân. Do vậy, nếu nhìn hình thức bên ngoài, khi gặp phụ nữ mặc váy “xín mục” và mặc cao trên mắt cá chân ta có thể nhận biết đó là người ở mường Xia, mường Mìn. 
Phục nữ Thái ở mường Mò, mường Sại ăn mặc cơ bản giống mường Xia, mường Mìn. Còn mường Hạ thì có một số bản của xã Sơn Hà cũng mặc “xín mục chệt” như phụ nữ ở mường Xia, mường Mìn, mường Mò nhưng chân váy họ mặc dài hơn, trùm mắt cá chân. 
Ở mường Chự, phụ nữ Thái ở các xã Trung Thượng, Trung Tiến, Trung Hạ, Trung Xuân rất ít khi mặc váy có hoa văn ở phần thân váy. Kiểu mặc này giống với phụ nữ ở mường Ca Da (Quan Hóa) và mường Khoòng (Bá Thước).
Như vậy, nhìn hình thức bên ngoài, trang phục của phụ nữ Thái ở Quan Sơn có nét riêng giữa với các vùng mường trong huyện, tạo nên sắc thái đa dạng của trang phục Thái. 
Bộ nữ phục Thái, về cơ bản gồm những yếu tố sau: áo, váy, khăn đội đầu, dải thắt lưng, bộ trang sức gồm: trâm cài tóc, hoa tai, vòng cổ, vòng tay, xà tích. Sau đây là phần khảo tả khái quát các yếu tố của nữ phục Thái. 
- Áo: Có nhiều loại như: áo xẻ ngực ngắn tay (xứa pha áng khen tến), áo xẻ ngực dài tay (xứa pha áng khen dào); áo khóm (xứa còng); áo dài dài tay (xứa luồm khén dào); áo che ngực (xứa hốm áng, xứa nọi); áo tang (xứa cằm),...
Áo khóm cổ chui (xứa còng): áo khóm cổ chui của phụ nữ Thái hơi giống áo phụ nữ Mường nhưng có nét khác ở hai vai, cổ tròn viền vải đỏ. Áo người Mường xẻ vai không có dây tua đỏ, cổ không viền đỏ. Áo khóm phụ nữ Thái có xẻ hai vai, mỗi bên 8 - 9cm, mỗi đường xẻ được bố trí 1 khuy tròn. Hai bên mép chỗ xẻ vai viền một đường vải đỏ để tua dài. Áo khóm có nhiều màu: đen, xanh, trắng, hồng... Tay áo bó sát tay người mặc, dài đến cổ tay. 
Áo dài dài tay (xứa luồm khén dào): Áo dài xẻ ngực có 4 khuyết bằng vải hoặc làm 4 đôi dây đối xứng thắt lại khi mặc. Áo này dùng cho cả đàn ông và đàn bà về mùa đông. Áo thường nhuộm màu đen, màu xám. Nếu để tang thì màu trắng, thân áo dài đến gót chân hoặc nửa ống chân. Hai bên sườn xẻ tà từ dưới lên khoảng 15 - 20cm. 
Áo che ngực, áo lót (xứa hốm áng, xứa nọi): Áo này may theo kiểu áo may ô quai rộng như đi lễ nhưng không xẻ ngực. Áo dài che rốn (đến eo) là áo mặc trong cùng của người phụ nữ như áo lót, mặc cả khi đi ngủ. 
Váy: Váy người Thái (nhóm Tày Mươi) ở Quan Sơn có nhiều loại. Nếu dựa theo trang trí hoa văn thân váy có các loại sau:
- Xín tha lán: Váy dệt hoa văn đơn giản, màu đỏ được thể hiện nhiều hơn.
- Xín mục: Váy dệt nhiều hoa văn cầu kỳ, đẹp hơn xín tha lán và xín ta lé. 
- Xín ta lé: Váy dệt hoa văn phức tạp hơn xín tha lán nhưng chưa đẹp bằng xín mục.
Nếu dựa theo kiểu dáng váy có các các loại sau:
- Váy hai tầng: Tầng trên đầu váy màu xanh cao khoảng 5 - 6cm có hai móc cài khi mặc. Tầng dưới thân váy màu đen cao từ 70 - 100cm (tuỳ người cao thấp mà cắt may tầng này). Bên trong chân váy nẹp một dải vải đỏ rộng 2cm, tiếng Thái gọi là pạn xín (có nghĩa là nấp vào trong) khi bước đi, mỗi bước lúc ẩn lúc hiện màu đỏ ở phía trong chân váy, tạo nên vẻ đẹp duyên dáng cho người phụ nữ Thái. 
- Váy ba tầng gồm có hai cách may: Cách 1: Có đầu váy, thân váy, chân váy (không có eo váy). Trong đó thân váy có thể là một tấm vải đen, tấm xín tha lán, xín ta lé hay xín mục 1, 2, 3, 4. Cách 2: Có đầu váy, eo váy, thân váy (không có chân váy). Cách 2 áp dụng cho xín mục 6, 7 và một số thân váy khác. 
- Váy 4 tầng gồm: đầu váy (hua xín hoặc húa xín), giữa thân váy (cang xín), thân váy (xín) và chân váy (tin xín). Mỗi loại tầng váy được dệt theo kĩ thuật trang trí hoa văn khác nhau. Nguyên liệu dệt váy là bông tự trồng, tơ tằm tự nuôi. Xe tơ to nhỏ theo loại vải tự dệt. Màu nhuộm lấy từ cây tự nhiên trong rừng hoặc cây trồng xung quanh vườn; cánh kiến đỏ và một số màu sắc thực vật cây trồng. Bây giờ có nơi dùng phẩm màu. 
Đầu váy (húa xín): có các loại húa vuôn, húa hồng, húa en, húa dói... Đầu váy có nhiều hình hoa văn chim, thú, hoa, lá... khổ vải rộng 25 - 30cm. Đầu váy có 4 loại chính: húa hồng (đầu váy hình rồng, hình cầu vồng); húa vuôn (đầu váy nhiều hoa văn); húa én (đầu váy ít hoa văn); húa dói (đầu váy có các đường sọc màu vàng) khổ rộng, vải đầu váy thường 25 - 30 cm). 
Đặc biệt, húa hồng có 7 màu sắc nằm ngang song song như 7 sắc cầu vồng. Người Thái Quan Sơn gọi cầu vồng là tố hồng, ngước hồng, ngước lạnh. Cũng có khi dệt đầu rồng vào đầu váy. Có khi không có đầu rồng nhưng có 7 màu tựa cầu vồng nên gọi húa hồng. 
Giữa thân váy (cang xín) là tầng nối giữa đầu váy và thân váy, là chỗ để thắt dải thắt lưng (xai eo, xai ánh)... Cang xín (eo váy) dệt theo hoa văn dệt phá (dệt vỏ chăn), diềm màu đen, khổ rộng 6 - 10cm. Cang xín có nhiều loại: mi nác (có hình con rái cá); mi ngước (hình con rồng); mi cán cọ (hình bẹ cây cọ); mi kho neo (hình móc câu); mi xặng (hình cột dây leo); mi khồm (hình hoa văn sọc, nhiều trang trí răng cưa). 
Cang xín eo váy cũng nhiều màu sắc, hoa văn rực rỡ trong đó màu đỏ, màu vàng là màu chủ đạo. 
Thân váy là tầng nối giữa cang xín và tin xín. Đây là tầng chủ đạo, khổ rộng thường 60 - 70cm. Thân váy có nhiều loại: xín tha lán, xín mục... 
Xín mục có: xín mục 1, xín mục 2, xín mục 3, xín mục 4, xín mục 5, xín mục 6, xín mục 7. Trong đó, xín mục 7 là loại đẹp nhất và khó dệt nhất. Tuy xín mục 7 khó dệt nhưng đa số phụ nữ Thái Quan Sơn vùng mường Xia, mường Mìn, mường Sại, mường Mò, mường Hạ đều biết dệt. Phụ nữ Thái Quan Sơn khi về nhà chồng bao giờ cũng chuẩn bị cho mình vài chục chiếc váy xín mục để làm hành trang về nhà chồng cùng với các đồ dệt thổ cẩm khác. Từ đấy cho thấy, phụ nữ Thái ở Quan Sơn rất khéo tay, tài hoa.
Thân váy được dệt bằng sợi bông, hoa văn là những họa tiết hình chữ nhật thẳng đứng, có các màu chạy quanh ngang bụng. Thân váy có tác dụng tạo cho eo của người phụ nữ thêm phần sinh động hơn. 
Chân váy (tin xín): khổ rộng 15 - 35cm. Tin xín cũng có nhiều loại hoa văn rực rỡ. Màu đỏ cũng là màu được phụ nữ Thái ưa dệt vào chân váy. Có hai loại chân váy là dệt và thêu. Dệt thì gọi là ngước tấp, ngước nọi, tin khồm, tin hồng... Nếu không dệt riêng mà thêu vào chân váy thì gọi xeo ứa, xeo ho, xeo nộc... Xeo nộc có nhiều loại với nhiều hoa văn rực rỡ: Tin ngước tấp (chân váy hình rồng lớn) gồm hình rồng làm chủ đạo và các hình khác phụ họa; Tin ngước nọi (chân váy hình rồng nhỏ): hình rồng mảnh hơn cùng các loại hình khác; Tin khồm (chân váy nhiều hoa văn) có răng cưa; Tin hồng (chân váy hình cầu vồng, nhiều hoa văn - 7 màu) và còn nhiều loại chân váy khác nữa. 
Ngoài việc dệt chân váy để khâu nối vào thân váy. Phụ nữ Thái Quan Sơn còn thêu trực tiếp vào chân váy. Các loại váy thường thêu vào chân là: xín tha lán, xín ta lé, cũng có người thêu vào cả chân xín mục. Riêng xín mục chệt không cần thêu chân váy vì khi dệt váy đã thiết kế hoa văn chân luôn. 
Nguyên liệu làm đầu váy, eo váy, chân váy cũng là vải sợi tự làm hoặc mua vải sợi về dệt. 
Đầu váy, eo váy, thân váy, chân váy đều do bàn tay khéo léo và đức tính chịu thương chịu khó của người phụ nữ Thái làm ra. Rất ít khi người phụ nữ Thái mua của người khác vì đồng bào cho rằng việc phải đi xin, đi mua là việc xấu hổ, là người lười nhác, kém cỏi không biết làm mới phải đi mua của người khác. Tuy nhiên, đến nay do nền kinh tế thị trường phát triển kèm theo đó nhiều thiếu nữ Thái bận học hành, làm công tác xã hội, thời gian công sức dành cho việc dệt vải ít nên vẫn phải mua để dùng. Những trường hợp này thì không bị chê, nhưng cũng tạo ra một lớp người không biết dệt vải, dệt thổ cẩm, từ đó mua quần áo để mặc như người Kinh. Có thể kể đến một số loại váy truyền thống của phụ nữ Thái sau đây:    
 - Váy có hình hươu, nai (xín quáng): Chất liệu của váy là bông vải sợi. Váy được làm từ một mảnh vải khổ 60cm chắp lại tạo thành váy kín hình ống. Váy chia làm ba phần: cạp váy, thân váy và chân váy (chân váy rời). Về nghệ thuật trang trí trên váy: cạp váy có màu trắng; thân váy được nhuộm màu chàm đen hoặc thêu hoa văn hình chim, bướm, quả trám; chân váy dệt hình tám con hươu làm hoa văn chủ đạo, hoa văn phụ gồm có lá rau dớn (phặc cút) và hoa đào.
- Váy rồng (xín ngước): Chất liệu của váy là vải sợi bông, váy kín hình ống. Váy được làm từ một mảnh vải khổ 60cm chắp lại, váy dài trên dưới 90cm (tùy theo chiều cao của người mặc để may phù hợp). Các đường ghép được khâu vắt cho mềm và không lộ đường giáp. Váy được chia làm ba phần: cạp váy, thân váy và chân váy. Cạp váy thường được làm bằng một mảnh vải hẹp hơn thân váy một chút và khác màu với váy rồi can vào thân váy, chiều cao của cạp váy trên 10cm. Người Thái gọi cạp váy là đầu váy để phân biệt với chân váy. Chân váy có chiều cao khoảng trên 20cm (chiếm 1/4 chiều dài của váy), chân váy bao giờ cũng rời với thân váy và chỉ khi chân váy được thêu, trang trí xong thì người ta mới may lại với thân váy. Về màu sắc và trang trí của váy thì cạp váy thường được trang trí bằng màu trắng hoặc màu đỏ, thân váy màu chàm đen còn chân váy được thêu bốn con rồng làm chủ đạo, các hoa văn phụ là các hình chữ thập đứt nét xen kẽ nhau hoặc hoa văn hình rau dớn.
 - Váy mặt trời (xín quăng vướn): Chất liệu của váy là vải sợi bông. Váy được làm từ một mảnh vải chắp lại tạo thành chiếc váy kín hình ống. Váy được chia làm ba phần là cạp váy, thân váy và chân váy (chân váy rời). Nghệ thuật trang trí trên váy được thể hiện đa dạng: cạp váy được dệt hình rồng; thân váy nhuộm màu chàm đen, hoặc thêu hình bướm ở phụ nữ trẻ, hình “mục van” ở người già; chân váy thêu tám hình mặt trời, mười hai tia tượng trưng cho 12 tháng trong năm. Váy mặt trời có nét tương đồng với họa tiết mặt trời trong trống đồng Đông Sơn. Hoa văn phụ của váy là các hình tam giác nhỏ, hình quả trám. 
- Váy thá lán: Váy được tạo thành từ một mảnh vải chắp lại tạo nên váy kín hình ống. Gồm hai phần chính là cạp váy và thân váy. Cạp váy màu trắng, thân váy có nền là màu chàm, hoa văn chéo hình trám chạy dọc thân váy. Thân váy được dệt pha trộn giữa màu đen với các màu đỏ, xanh, sét (màu sét, màu xanh ít hơn) tạo thành tấm váy có 4 màu rải đều, trong đó màu đen là chủ đạo, màu đỏ ít hơn xín tha lán mí lay. Váy được dệt bằng sợi kim tuyến, chân váy được dệt bằng những họa tiết hình sọc chắp vá lại với nhau. Chất liệu của váy là vải sợi bông. 
- Váy nhiều hoa văn (xín mục): Chất liệu của váy xín mục là vải sợi bông. Váy kín, hình ống và được tạo thành từ một mảnh vải chắp lại. Váy chia làm hai phần chính là cạp váy và thân váy. Cạp váy có màu trắng, thân váy nhuộm màu chàm đen. Hoa văn trên váy là hoa văn hình học, hoa nhỏ, cách điệu, nối tiếp nhau chạy vòng khắp thân váy. 
Xín mục có nhiều loại. Khổ rộng thân váy thường từ 60 - 70cm; trong đó xín mục chệt (váy hoa bảy màu sọc) là khó dệt nhất. Khi dệt xín mục chệt có hai tầng nền (xong chừa). Một tầng sợi trắng. Một tầng nhiều loại sợi màu được bố trí theo mô típ định sẵn. Khi dệt sẽ cài giữa tầng trắng và tầng màu vào nhau, đan bởi chỉ bảy màu (chệt líu). Đồng thời khi đưa thoi sợi ngang sẽ cài thêm những màu chỉ để tạo hoa văn theo ý muốn gọi là “cọc”. Do vậy, váy mục bảy còn gọi là váy mục cọc. Do phải làm nhiều động tác khó như vậy nên phụ nữ nào dệt được xín mục chệt hay xín mục cọc là người khéo tay và thuộc diện tài, đáng nể. 
Khăn đội đầu
Khăn được chia thành các loại: khăn của phụ nữ trẻ có hoa văn sinh động, khăn của phụ nữ có tuổi thường có màu chàm đen hoặc xanh, ít thêu hoa văn. Khăn của phụ nữ Thái có một số loại sau:
- Khăn lăm tến (khăn đen ngắn): dài khoảng 60 - 70cm, rộng 25 - 30cm nhuộm màu đen. 
 - Khăn xeo: Khăn hình chữ nhật, dài 1,2 - 1,5cm, rộng 25 - 30cm, nhuộm màu đen. Hai đầu khăn thêu nhiều hoa văn rực rỡ, thêu khoảng 20 - 25cm ở mỗi đầu. Tùy theo sở thích của từng người mà thêu hoa văn khác nhau. Hình nào làm chủ đạo ở phần giữa đám thêu thì đặt tên khăn theo hình đó. Ví dụ: khăn hồng (hình rồng làm chủ đạo) có phối hợp các hình khác; khăn lông vướn (hình mặt trăng làm chủ đạo); khăn bóc mạy (hoa làm chủ đạo); khăn tố quáng (hình con nai làm chủ đạo); khăn tố chạng (hình con voi làm chủ đạo); khăn tố ví (hình con bướm làm chủ đạo); khăn xeo ứa (không có hình nào là chính, có nhiều hình tương đối đều nhau trên khăn); khăn tô nộc (khăn hình con chim làm chủ đạo)...
- Khăn cằm, mú cằm (khăn tang, mũ tang) làm bằng vải trắng đội trong đám tang. Khi đến nhà người khác phải bỏ khăn, mũ tang. Người chết, nếu là đàn ông thì trùm khăn đỏ, nếu là phụ nữ thì trùm khăn đen có thêu hoa văn (khăn xeo) lên đầu. Nếu nhà không có khăn xeo mới thì đội khăn đen (khăn lắm tến) lên đầu người chết. 
Dải thắt lưng
Dải thắt lưng làm bằng tơ, vải dệt khổ 20cm. Tơ hoặc vải dệt mịn mỏng, nối lại thành vòng tròn đường kính tùy theo khổ người. Khi mặc gấp đôi hình tròn, luồn đầu kia vào nửa vòng tròn và thắt mối ở hông trái. Phần thừa ra để làm giải tua (háng ánh).
Các màu xanh, đen, trắng, tím được ưa dùng. Thông thường, con gái dùng màu xanh, còn tím, đen dùng cho người lớn tuổi. Đuôi thắt lưng thả xuống, khi đi đung đưa theo nhịp bước, tạo nét duyên dáng mềm mại.
Trang sức
Phụ nữ Thái Tây Bắc và Thanh Hóa thường đeo vòng tay, vòng cổ và hoa tai. Tuy nhiên, có đôi nét khác nhau về đặc điểm hình thức trong các loại trang sức này. Đồ trang sức của phụ nữ Thái được làm từ nhiều chất liệu, song phổ biến vẫn là vàng, bạc. Hoa văn được trang trí trên trang sức được tạo tùy hình dáng của từng loại đồ vật. 
Trâm cài tóc được làm từ bạc, đôi khi là gỗ mun. Trâm có hình thon nhọn ở một đầu, đầu kia là hình vuông, làm thành một cái hộp rỗng, có nắp đậy ở chân kim. Trâm là thứ trang sức không thể thiếu khi búi tóc, đội khăn, là vật dụng mà phụ nữ thường mang theo bên mình. Do đó, khi lấy vợ, gả chồng bên gái sắm sửa làm của hồi môn, bên nhà trai dùng làm quà đón cô dâu (cùng với váy, áo, vòng tay, vòng cổ...), nhà giàu thì làm trâm bằng bạc, nhà nghèo thì làm bằng nhôm đúc hoặc nhôm bọc gỗ. Trâm được sử dụng khi búi tóc, cài ở phía trái đỉnh đầu (2 cặp) và quàng khăn ra ngoài. Có khi trâm ngắn nằm gọn trong khăn, có khi trâm dài, lộ ra ngoài khoảng 10 - 15cm. Ngày thường các cô gái búi tóc mà không dùng trâm, chỉ có phụ nữ trung niên trở lên dùng trâm.
Hoa tai: Người Tày Mươi dùng hoa tai giống như một cuộn chỉ hay một cái khuy áo tết đan gọi là chón hu. Chón hu gồm hai đồng tiền nhỏ như hai đồng xu có kích thước không giống nhau, cái ngoài có đường kính gấp đôi cái trong, trên mặt đồng tiền nhỏ gọi là chân, xỏ chân vào lỗ tai, nhiều khi còn dùng một sợi dây bằng bạc nhỏ quấn quanh lỗ suốt để giữ cho hoa tai khỏi bị rơi. Hoa tai Tày Dọ có phần chính được làm giống hình trăng lưỡi liềm, hai đầu hoa văn hình xoáy trôn ốc. Khi đeo, mắc một đầu xoáy ốc vào lỗ tai, hướng phần cong lồi ra phía trước.
Vòng cổ là trang sức được làm bằng bạc, vàng đúc hình tròn mở, thon dẹt ở hai đầu, trên thân có hoặc không có trang trí hoa. Hai đầu vòng cổ được trang trí hình đuôi cá, đầu rồng, dây trầu, hoa đào. Mỗi chiếc vòng cổ được đúc từ 4 đến 5 nén bạc. Các cụ bà đeo vòng cổ để kỵ gió, kỵ ma, con gái đeo vòng cổ để tăng thêm sự duyên dáng. Vòng cổ còn là vật làm tin mà nhà trai thường tặng cho nhà gái trước lúc dạm hỏi.
Vòng tay được đúc bằng bạc và trang trí nhiều kiểu khác nhau, có loại hình tròn, có loại hình dẹt. Phần thân thường có tiết diện lớn nhất, sau đó nhỏ dần và làm thon dẹt ở hai đầu. Vòng tay có hình tròn hở, hai đầu cách nhau khoảng 3 - 4cm. Khi đeo luồn cổ tay vào khe hở rồi xoay ngang, ôm gọn cổ tay người phụ nữ. Mặt ngoài có trang trí hoa văn như quả núi (phá), mắt con sâu (pók hén tả bông), hình xương sống (thường đeo từng đôi một). Vòng tay bằng bạc cũng là vật làm tin mà chàng trai thường tặng cho cô gái.
Xà tích là một chuỗi dây với hàng chục lượt sợi treo hai đầu vào hai vòng khuyên tròn, đường kính khoảng 3cm. Các sợi bạc đều dài từ 30 - 40cm, được gắn với một số thứ như hộp đào, khánh bạc, con cá... Mỗi bộ xà tích có một hoặc nhiều quả đào nhỏ để trang sức. Khi đeo xà tích người ta luồn hai vòng khuyên lớn ở hai đầu chuỗi dây vào dải dây lưng để những thứ trang trí lộ ra phía sườn bên phải. Xà tích đi cùng với bộ váy áo truyền thống làm tăng vẻ lịch lãm của người phụ nữ Thái.
Bên cạnh bộ nữ phục, đối với phụ nữ Thái, cũng phải kể đến một nét mang dấu hiệu nhận biết các nhóm Thái địa phương là các kiểu để tóc của họ. Khi chưa có chồng, phụ nữ Thái Đen Tây Bắc búi tóc đằng sau gáy; khi có chồng thì búi tóc ngược lên đỉnh đầu hơi nghiêng về bên trái (tăng cẩu). Khi chồng chết, trong thời gian để tang thì búi tóc khoảng giữa đỉnh đầu và gáy, hết tang lại búi như khi chồng còn sống. Đối với phụ nữ Thái Trắng, các kiểu tóc không mang tín hiệu thông tin rõ ràng như phụ nữ Thái Đen. 
Với người phụ nữ Thái ở Thanh Hóa, hầu như không có quy định chặt chẽ nào để thể hiện tình trạng hôn nhân hay kiêng kị có liên quan đến kiểu để tóc như phụ nữ Thái Đen ở Tây Bắc.
* Một số nét biến đổi của trang phục hiện nay
Có thể nói, phạm vi sử dụng trang phục của người Thái đang hẹp dần. Chỉ có người già là còn giữ được thói quen mặc trang phục truyền thống còn những người trẻ đều dùng các loại quần áo may sẵn từ các loại vải công nghiệp như người Kinh. Họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong các dịp hội hè, lễ Tết.
Ngày nay, chân váy của phụ nữ Thái không được thêu hoa văn và trang trí cầu kỳ như trước nữa mà đã được đơn giản hóa. Quần áo được cắt may từ vải sợi bông nhuộm chàm được thay thế bằng các loại vải công nghiệp, quần âu và áo sơ mi may sẵn giống như của người Kinh. 
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi về trang phục của người Thái, các nguyên nhân sau có vai trò nổi trội hơn cả:
Thứ nhất, ảnh hưởng của phát triển kinh tế thị trường đến vùng và hộ gia đình. Do quá trình phát triển của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, nghề dệt truyền thống của dân tộc Thái đã dần bị mai một. Trước đây, những bộ trang phục truyền thống đòi hỏi người ta phải chế tác từ loại vải dệt thủ công với một loạt công việc của trồng bông, xe sợi, dệt may, thêu thùa tốn thời gian và công sức( ). Những năm gần đây, các loại vải công nghiệp đa màu sắc mà giá thành lại rẻ đã khiến cho nhiều khung dệt trở nên “lạnh lẽo” trong các gia đình người Thái.
Trong quá trình phát triển, trang phục của người Thái đã có nhiều biến đổi và thời gian gần đây càng thay đổi mạnh mẽ trong xu thế ảnh hưởng của trang phục người Kinh. Đây là một xu thế tất yếu khi các hệ thống đường giao thông được mở rộng tạo điều kiện cho trao đổi, giao lưu và buôn bán hàng hóa giữa các vùng miền.
Trong trang phục của người phụ nữ Thái ngày nay, thường thấy các loại áo không còn được may bằng vải dệt thủ công nữa mà chủ yếu được may bằng vải dệt công nghiệp. Còn nam giới thì hầu như mặc trang phục giống với người Kinh.
Quá trình sống xen kẽ giữa dân tộc Thái với các dân tộc khác cùng với sự phát triển của kinh tế vùng, mức sống của các hộ gia đình cũng ngày càng được cải thiện. Nếu như trước đây người phụ nữ luôn phải “nỗ lực” bên các khung cửi dệt vải nhằm đáp ứng nhu cầu mặc của các thành viên trong gia đình thì ngày nay họ đã được giải phóng sức lao động đó để dành thời gian chăm lo cho con cái và gia đình nhiều hơn.
Thứ hai, ảnh hưởng của văn hóa mới, đặc biệt là văn hóa người Kinh. Do quá trình giao lưu văn hóa với người Kinh, trang phục nam giới Thái đang phát triển theo con đường âu hóa mạnh. Nam giới Thái ngày nay thường mặc áo sơ mi và quần âu, rất ít đàn ông mặc quần áo thổ cẩm truyền thống. Trang phục nữ giới cũng bắt đầu có hiện tượng âu hóa thể hiện bằng việc bỏ áo cóm thay thế bằng áo sơ mi đang diễn ra khá mạnh và phổ biến, nhất là các trung tâm thị trấn, thành phố( ).
Do tiếp thu âu phục người Kinh, áo cóm cũng được cải tiến. Các kỹ thuật cắt khâu vẫn được giữ nguyên, nhưng những người thợ đã thêm vào đó đôi vai bồng tăng độ bay của áo Thái cổ truyền. Chất liệu vải cũng sử dụng nhiều loại vải khác nhau, nhiều sắc màu hoa văn, chủ yếu được may bằng vải hoa, lụa công nghiệp. Váy thường được may bằng vải lụa, nhung thay bằng vải thổ cẩm như trước kia. 
- Trang phục truyền thống đàn ông Thái:
Áo 3 túi ống rộng, xẻ tà 2 bên, quần ống rộng thắt dây rút, không có túi. Cả quần và áo nhuộm chàm (xám) hoặc nhuộm nâu. Đầu thắt khăn đưa múi về phía trán.
6.1.4.3. Nhà ở
Nhà ở của người Thái ở Việt Nam là một lĩnh vực đã có nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Dân tộc Thái ở Việt Nam đều có truyền thống ở nhà sàn. Nhìn tổng quát, nhà sàn người Thái ở khắp các vùng đều giống nhau về những nét cơ bản. Song do điều kiện địa lí khác nhau, sự tiếp thu ảnh hưởng qua lại lẫn nhau về kiến trúc nhà ở giữa các dân tộc anh em cùng sinh sống xen kẽ trên một vùng, nên nhà sàn của người Thái ở từng vùng cũng có sự biến tấu khác nhau ở một số chi tiết kiến trúc. 
Từ Tây Bắc đến miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An, nhà sàn của người Thái là một nét văn hóa tiêu biểu, góp phần làm nên không gian văn hóa Thái. Nhìn vào cấu trúc của mái nhà chúng ta có thể nhận ra được nhà ở của các nhóm Thái địa phương.
Ở Tây Bắc, nhà sàn của người Thái Đen có kết cấu dạng mai rùa và thường trang trí ở hai đầu hồi của nóc nhà đôi khau cút. Các khau cút này về sau được cách điệu hóa thành nhiều kiểu dạng với nhiều tên gọi khác nhau. Trong khi đó, nhà sàn của người Thái Trắng là nhà kiểu 4 mái và không có khau cút. Đó cũng là một điểm khác giữa nhà của người Thái Đen và Thái Trắng ở Tây Bắc.
Ở miền núi Thanh Hóa, nhà sàn của người Thái phổ biến là dạng nhà 4 mái (2 mái chính và 2 chái) và hầu hết là không trang trí khau cút. Cũng có một số vùng, hai đầu hồi nhà có thể được trang trí bằng cách đan các tâm phên đè lên phần nóc để chống tốc phần tranh phía trên khi gió thổi mạnh, cái đó được gọi là đầu mèo (hủa meo) hay vòi voi (huống chạng) như ở vùng Bá Thước. Như vậy, mái nhà cũng là một chi tiết thể hiện sắc thái địa phương của các nhóm Thái.
Về kiểu nhà, nhà sàn của người Thái ở vùng Tây Bắc Việt Nam, nhìn tổng quát có các loại như: nhà cột chôn, nhà cột kê, nhà hai hàng cột, nhà 4 hàng. Loại nhà cổ từ xa xưa nhất truyền lại là nhà cột chôn. Nhà cột chôn tuy bộ khung đơn giản, ít tốn cây que, nhưng lại khổ công về lấy cột, bởi chỉ có các loại gỗ thật tốt thì phần chôn dưới đất mới không chóng bị mục. Càng về sau này, những loại gỗ tốt để lấy lõi đã cạn dần nên xuất hiện nhà cột kê. Làm nhà cột kê phải tốn nhiều công hơn, tốn nhiều cây làm bộ khung mới bảo đảm độ vững chắc. Thông thường, nhà càng ít hàng cột càng bé và ít gian, nhà càng nhiều hàng cột càng to và nhiều gian.     
Theo sách Tỉnh Thanh Hóa của Charles Robequain, Nxb Thanh Hóa, 2012, ngôi nhà của người Thái ở Thanh Hóa như sau: “... người Thái ở nhà sàn hình chữ nhật. Mặt trên sàn dùng để ở, gầm sàn dùng để nuôi, nhốt gia súc có rào kín xung quanh. Sàn ở cao khoảng 2m, sàn trước nhà để phơi phóng, rửa ráy. Tại đây có vại nước để rửa chân trước khi vào nhà. Bếp đặt ở giữa sàn ở, ban thờ tổ tiên, ông táo ở góc nhà. Mặt bằng sinh hoạt trên sàn nhà chia làm hai phần: gian sát cầu thang chính là nơi tiếp khách, dành cho đàn ông; gian phía trong, giáp cầu thang phụ là nơi dành cho nữ ở và nấu nướng...”.
Những nét biến tấu trong kiến trúc và kiểu cách nhà ở của người Thái ở Quan Sơn sẽ góp thêm vào kho tàng kiến thức chung về văn hóa vật chất của người Thái ở Việt Nam, trong một khung cảnh văn hóa đang dần thay đổi. Người Thái ở Thanh Hóa nói chung, Quan Sơn nói riêng, nhà ở truyền thống là nhà sàn, nhưng không có khau cút nổi bật ở nóc nhà như người Thái Đen Tây Bắc. Kiểu cổ xưa là nhà sàn cột chôn nên người Thái có câu: “Cồn hườn hạn ván sau”, nghĩa là người ở nhà sàn bản cột - bản nhiều cột, nhà bốn mái bao hồi không có khau cút như nhà ở của người Thái Tây Bắc. Xà dọc chạy suốt, thang lên hai đầu hồi gọi là thang bên ngoài và thang bên trong.
Người xưa thường nói làm nhà 4 gian dưới 3 gian trên, hoặc 5 gian dưới 4 gian trên... có nghĩa là ở trên có gian ngoài làm rộng, dưới sàn cho thêm một đôi cột ngắn vào gian rộng, nên khi nhìn dưới sàn là 4 - 5 gian nhưng khi lên trên nhà là 3 - 4 gian. Người ta thường ngăn ra một gian rộng hồi bên ngoài để nam giới ở và tiếp khách nam, số gian còn lại phía trong là nữ giới ở và tiếp khách nữ. Hướng nhà thường quay theo hướng đông nam và nằm gối đầu theo hướng xuôi dốc. Cấu trúc nhà có hai cửa chính. Hai hồi đầu thang phía ngoài, phía trong và cứ mỗi một gian một cửa sổ. Riêng gian khách bố trí 4 cửa sổ, 2 cửa hồi. Hai cửa phía trên để đảm bảo thoáng mát. Có thể nói, nhà sàn của người Thái thoáng mát, rộng rãi, ở được nhiều người. Khi có việc đông người không phải lo làm rạp như nhà đất. Trong nhà sàn, có hai cột nhà phải kiêng kị là cột giường thờ và cột bếp phía trong. Nhà của người Thái thông thường có hai bếp: một bếp gian ngoài, một bếp gian trong, nhà rộng, nhiều người còn có thêm một bếp giữa. 
Về nguyên liệu làm nhà, ngôi nhà truyền thống của dân tộc Thái ở Thanh Hóa nói chung được làm chủ yếu từ nguồn nguyên liệu tự nhiên. Người Thái trong môi trường sống của mình, cùng lịch sử sinh tụ đã tích lũy và phát triển một hệ thống tri thức địa phương liên quan đến việc khai thác các nguồn lực tự nhiên để làm nhà( ). Vật liệu để làm nhà sàn truyền thống của người Thái gồm: gỗ, tre, nứa, song, mây, tranh, kè, cọ... Những vật liệu này thường có sẵn trong tự nhiên và khai thác tương đối dễ dàng. Đồng bào ít khi sử dụng những nguồn vật liệu phải vận chuyển từ các địa phương khác đến.
Ví dụ như lá tranh, cọ dùng để lợp mái nhà. Khi xưa, người Thái ở Thanh Hóa có những khu rừng có thể lấy lá tranh, cọ để lợp nhà, nhiều nhà còn trồng cây này quanh nhà, để đến khi làm nhà, họ tự túc được đủ lá lợp mái nhà, không cần vào rừng khai thác, xin hàng xóm hay đi mua( ).
 Đối với việc cất một ngôi nhà Thái truyền thống ở xứ Thanh, gỗ là khâu nguyên liệu cần có sự chuẩn bị lâu dài nhất. Gỗ có mặt trong hầu hết những kết cấu quan trọng nhất của nhà sàn Thái cổ truyền và được sử dụng để làm cột, kèo, quá giang, xà dọc, xà ngang. Gỗ làm cột nhà thường là cây gỗ to, được chặt vào mùa đông để tránh mối mọt. Với một hộ gia đình bình dân, việc chuẩn bị gỗ để cất một nóc nhà sàn phải mất vài ba năm. Sở dĩ mất thời gian trong khâu chuẩn bị này vì nhà sàn Thái yêu cầu chất lượng gỗ tốt, bền bỉ trong môi trường tự nhiên, đủ sức chịu lực. Cụ thể hơn, người Thái Thanh Hóa thích sử dụng nhóm gỗ tứ thiết vào các hạng mục chịu lực quan trọng nhất của ngôi nhà như cột nhà; đối với các hạng mục xà, quá giang thì có thể chọn các loại gỗ khác, nhẹ hơn, không cứng bằng, nhưng tuyệt đối không thể bị mối, mọt. Công việc khai thác và vận chuyển gỗ đòi hỏi sự liên kết của các cá nhân trong cộng đồng làng bản. Chính trong quá trình chuẩn bị ấy, tinh thần tương thân tương ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng người Thái được đặc biệt thể hiện rõ nét. Ít nhất người ta phải lập được một nhóm dăm ba người, cùng nhau đi khai thác gỗ và vận chuyển về nhà. 
Về kết cấu nhà, một nghiên cứu khảo sát cho biết, người Thái Thanh Hóa phân hạng ưu tiên trong khâu chuẩn bị, thường thì chuẩn bị đủ gỗ làm cột mới bước sang việc chuẩn bị gỗ cho các hạng mục khác. Một khi có đủ số lượng gỗ cần thiết để cất nhà, người Thái Thanh Hóa sẽ dựng nhà truyền thống theo một trong hai kết cấu là nhà có đà hay nhà quá giang cột chôn. 
Cả hai loại nhà sàn truyền thống của người Thái Thanh Hóa nói trên đều là loại nhà sàn cột chôn, tuy nhiên giữa chúng có những điểm khác biệt khá cơ bản. Loại hình nhà có đà, theo khảo sát thì thấy phổ biến ở một số huyện của Thanh Hóa như: Quan Sơn, Mường Lát, Lang Chánh, Thường Xuân... Dấu hiệu dễ nhận biết kiểu nhà này đó là cột chôn, dùng ngoãm tự nhiên hoặc được tác tạo, sử dụng lạt buộc. Ngược lại, loại hình nhà cột chôn cũng là mô hình nhà sàn cột chôn nhưng không sử dụng ngoãm hoặc rất ít khi thấy sử dụng. Bản thân tên gọi hai loại nhà này cũng xuất phát từ những đặc điểm loại hình chủ yếu dựa trên kỹ thuật kết cấu nhà. Mô tả kiểu nhà sàn có đà, một nhà nghiên cứu nhận xét: “Ưu điểm của nhà này rất là vững chãi, cột to, có ngoãm tự nhiên hay tự tạo để luồn chốt làm ping để gác đà dưới. Hàng cột giữa chỉ cao đến gầm sàn có tác dụng nâng đỡ phần giữa nhà sàn. Cột giữa của vì đầu tiên có thể cao quá mặt sàn 40 - 50cm để tiện kê lúc chặt đẽo các công cụ và đồ gia dụng trong gia đình. Các đỉnh cột nếu không có ngoãm tự nhiên thì dùng rìu vát tạo thành ngoãm để đặt đà trên, quá giang có thể xê dịch được. Kèo được gắn thêm một thanh gỗ con gọi là kim may để ngoắc vào đà trên..”( ) (người Thái Quan Sơn gọi kim may là cút kèo). 
Ở loại hình nhà cột chôn, một nghiên cứu khảo sát cũng chỉ ra rằng, đà trên và đà dưới đã mất, ở đỉnh các cột không còn ngoãm mà trở thành các cọc đặt quá giang, phần không thể xê dịch, liên kết cố định với hệ thống vì kèo bằng kỹ thuật chốt, mộng. Kỹ thuật kết cấu của hai loại hình nhà sàn truyền thống của người Thái Thanh Hóa khác nhau nên buộc chủ nhân ngôi nhà phải chuẩn bị các loại gỗ khác nhau. Nếu họ định làm nhà có đà, các cây gỗ dựng cột nhất thiết phải là loại gỗ tròn, cả cây; nhưng ở loại hình nhà sàn cột chôn, điều đó không phải là yêu cầu bắt buộc.
Ngoài những khác biệt cơ bản về kỹ thuật kết cấu nhà sàn truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa nói trên, kết cấu mái nhà, mặt sàn, vì kèo, vách của hai loại nhà sàn truyền thống nói trên không có nhiều sự khác biệt đáng kể. Trong kỹ thuật làm mái nhà sàn truyền thống của người Thái Thanh Hóa, họ sử dụng đòn tay chịu lực và phủ lớp rui bên trên. Cách bố trí đòn tay trên phần kết cấu mái, họ đặt chúng song song so với thanh đòn nóc, và phủ lớp rui chạy song song với vì kèo... Lợp mái nhà bằng lá cọ phủ trên hệ thống đòn tay, rui, mè để che mưa che nắng, cố định với nhau bằng lạt buộc. Đáng chú ý là, ở kỹ thuật kết cấu nhà sàn cổ truyền của người Thái Thanh Hóa, không sử dụng các thanh mè phụ trợ cho mái. 
Kết cấu nhà truyền thống của người Thái Thanh Hóa phổ biến có ba gian hoặc năm gian. Trong không gian nhà có những gian chính và có những vùng không gian phụ. Toàn bộ không gian nhà được mở thông ra môi trường ngoài bởi hai cửa chính bố trí phía trước và sau của ngôi nhà. Kèm thêm mỗi gian trong nhà, có hai cửa sổ. 
Kết cấu nhà sàn của người Thái ở Quan Sơn về cơ bản mang những nét chung của người Thái ở Thanh Hóa, chỉ có một vài nét biến tấu chi tiết như sau: 
Một là: nhà sàn cột tròn chôn có cựa để đặt đà dầm dọc. Tiếng Thái gọi là “hườn sáu phắng xơ ka lưa”, xà dọc trên vắt trên đầu cột, xà ngang vắt trên xà dọc. Kiểu nhà này thường là nhà tạm như: chòi rẫy, chòi ruộng, nhà vợ chồng mới ra ở riêng, nhà nghèo không có điều kiện làm nhà lớn, nhà đẹp. Về không gian, thường chỉ 1 - 3 gian. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở.
Hai là: nhà sàn cột tròn chôn, đà dầm dọc luồn cột, cột bằng gỗ tốt chịu được ẩm. Chống được mối, mọt, xà dọc trên vắt trên đầu cột, xà ngang vắt trên xà dọc (tầng trên). Kiểu nhà này là kiểu nhà cổ đến nay hầu như không còn. Tiếng Thái gọi là “hườn sáu phắng, khư pát”. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. 
Ba là: nhà sàn cột tròn kê tảng, đà dầm dọc luồn cột, xà dọc tầng trên vắt qua đầu cột, xà ngang tầng trên vắt trên xà dọc. Tiếng Thái gọi là hườn kê khư pát. Kiểu nhà này thường phổ biến ở các huyện có người Thái kể cả Tày Mươi và Tày Dọ. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. 
Bốn là: kiểu nhà xà dọc vắt đầu cột, xà ngang trên xà dọc: nhà sàn kê tảng cột tròn hoặc vuông, đà dầm dọc luồn cột, dầm ngang có 1 cái luồn 2 cột đối diện nhau, xà ngang tầng trên thắt vào đầu cột tạo thành từng vì khi dựng (trừ kèo). Xà dọc tầng trên thắt trên xà ngang. Tiếng Thái gọi là “hườn kê khư hặt”. Kiểu nhà này xuất hiện từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở vùng mường Mìn (xã Sơn Điện và xã Mường Mìn). Nay đã lan sang các vùng khác. Kiểu nhà này có ưu điểm là vững hơn kiểu nhà xà dọc vắt qua đầu cột. Tầng 1 cao dưới 2m không có người ở. 
Năm là: kiểu nhà xà ngang thắt đầu cột, xà dọc thắt trên xà ngang: nhà sàn cột vuông hoặc cột tròn kê tảng đá; dầm dọc luồn qua cột (pinh), đà dầm ngang có một cái xâu qua đôi cột, xà ngang tầng trên thắt vào đầu cột, kèo thắt vào đầu cột trên xà ngang, xà dọc từng đoạn (gỗ xẻ rộng 18 - 22 dày 8 - 10 cm) thắt vào đầu cột điểm dưới xà ngang. Nhà kiểu này gọi là hườn kèo nệp (kèo đặt vào đầu cột) tạo thành từng vì khi dựng cả kèo. Đây là nhà tân tiến mới xuất hiện cuối thế kỷ XX. Nhà sàn kiểu mới ở cả hai tầng, tầng 1 cao trên 2m. 
Như vậy, đến nay có 5 kiểu thiết kế nhà của người Thái ở Quan Sơn. Trong 5 kiểu nhà trên, thì có 3 kiểu có ba hàng cột là hai hàng cột cái hai bên từ tầng một đến tầng nóc, một hàng cột ngắn đỡ giữa sàn. Tiếng Thái gọi là xáu kháng tóng, xáu cóm. Hai kiểu nhà có vì, thường có bốn hoặc năm hàng cột gồm ba hàng cột như trên, ngoài ra thêm một hoặc hai hàng cột hiên theo sở thích của gia chủ. Riêng kiểu thứ 5 thường là có năm hàng cột (hai hàng cột hiên). Cột hiên thường nhỏ hơn, thấp hơn cột cái, chỉ từ nền lên đỡ đuôi kèo. Nhà sàn người Thái cổ ít khi làm hè (thưng ra ngoài cột cái). Trước đây chỉ có nhà tạo, nhà quan mới làm hè ở phía cầu thang lên. Đến nay, hầu như nhà nào cũng làm hè ở phía cầu thang lên. Có nhà còn làm hè đi lại xung quanh nhà. 
Về cách đặt xà dọc: Vùng mường Mìn, mường Xia xà dọc đặt trên xà ngang ở đầu cột (xà ngang ở dưới xà dọc thắt từng đôi cột với nhau). Sau đó khi dựng các đôi cột lên người ta đưa xà dọc đặt vào các đầu cột tạo thế liên hoàn, trong đó các khớp cắt mớm xà dọc cho ăn xuống xà ngang tại vị trí tiếp giáp ở đầu cột. Do đó, làm nhà kiểu này sẽ vững chắc hơn kiểu đặt xà dọc ở đầu cột sau đó đặt xà ngang lên trên xà dọc.
Vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ, mường Chự chủ yếu là đặt xà dọc trực tiếp vào đầu cột, sau đó đặt xà ngang lên trên xà dọc. Tuy nhiên, trong các vùng cũng có các kiểu đặt xà dọc, xà ngang khác nhau. Vùng mường Xia, mường Mìn vẫn có kiểu nhà đặt xà dọc trực tiếp vào đầu cột vì một số hộ ở các vùng dưới chuyển cư lên cư trú ở địa bàn họ vẫn giữ kiểu nhà cũ của quê hương nơi mình ra đi.
Các vùng mường Chự, mường Hạ, mường Sại, mường Mò cũng có kiểu nhà như vùng mường Mìn, mường Xia vì có một số người mường Mìn, mường Xia chuyển cư về đó.
Về cây dầm nhà: Nhà tạm thì đồng bào làm lẫy từng cột sau đó chọn cây gỗ thẳng, dài có đường kính 15 - 20cm đặt các lẫy liên tiếp tạo thành đà dầm dọc song song bên cột đối diện nhau. Sau đó đặt dầm ngang lên dầm dọc, gốc dầm ngang quay về phía đầu của người ngủ, gốc dầm dọc quay về gian ngoài (gian tiếp khách nam giới). Nhà kiên cố: Hầu hết dầm dọc (pinh) đục cột luồn qua cột liên kết các cột với nhau. Đà dầm kiểu này hầu hết là dầm xẻ hoặc đẽo vuông cạnh dày cỡ 8 - 10cm, rộng 18 - 20cm, dài có thể xuyên suốt các cột hoặc nối từng đoạn ở hốc cột với nhau. Đà ngang cũng đặt như kiểu nhà tạm.
Cấu trúc mái nhà sàn cổ: Mái nhà tạo thành bốn mái, nóc thẳng và ngắn. Hai mái chính (xóng pài) dài, nóc thẳng. Hai mái phụ (xóng túp) ngắn, dốc. Lợp lá cọ, lá kè, lá cỏ tranh, gỗ sa mu... Cột chôn làm bằng các loại cây gỗ tốt, chống được ẩm, mối. Ngày nay, phổ biến là đồng bào làm kê tảng. 
Về cầu thang: Có hai cầu thang (một cái ở gian ngoài cùng, một cái ở gian trong cùng). Cầu thang có thể bắc lên hè ở phía ngọn xà ngang (nếu nhà không có hè). Cầu thang thường làm lẻ bậc (3, 5, 7, 9), thang bên ngoài để đàn ông lên xuống, thang bên trong để đàn bà lên xuống nhà. Dọc cầu thang (mé lay) làm bằng luồng hoặc làm bằng gỗ. Nếu làm bằng gỗ thì tránh cây trường kén (có kẹn) vì theo tiếng Thái, “kẹn” có nghĩa khó làm ăn. Những cặp vợ chồng mới ra ăn riêng, khi làm nhà, cầu thang thường lấy cây dẻ gai (có co nám) làm cầu thang để trừ ma tà đến quấy nhiễu.
Về mặt bằng sinh hoạt trong ngôi nhà sàn, các mảng không gian trong ngôi nhà truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa có sự ngầm định phân chia theo giới, hay theo ngôi vị chủ khách. Cụ thể hơn, đối với một mái nhà năm gian, không gian chính yếu là hai gian nhà lớn nhất (gian khách và gian thờ). Gian khách là gian ngay khi bước chân lên cầu thang đi vào nhà là khu vực của người đàn ông, thường là chủ nhà tiếp đón khách. Cũng như gian thờ, hai vùng không gian này, không mấy khi thấy người phụ nữ nấn ná ngồi lại. Gian nhà có cây cột chủ là phòng ngủ của vợ chồng chủ hộ, con cái. Một không gian không thể thiếu là gian bếp. Một vùng không gian khác, gọi là không gian phụ dùng để đặt ống nước, đồ gia dụng trong nhà, chạn bát. Thêm vào đó, qua quan sát còn thấy ở nhà sàn Thái cổ truyền có sàn phơi. Từ gian thứ ba, các phần không gian hẹp hơn, phân định theo giới khá rõ, đây là khu vực dành cho phụ nữ sinh hoạt. 
Người Thái ở Thanh Hóa tích trữ sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch ngay trong ngôi nhà của mình. Thóc lúa hay các sản phẩm nông nghiệp khác được cất trữ ở một sàn gác phía trên bếp lửa. Phần gầm sàn nhà truyền thống thường là khu vực nhốt gia súc.
Ở vùng Quan Sơn, nếu là nhà sàn người Thái thì sẽ có ba gian trở lên, các gian đều nhau thì bố trí như sau: Gian trong cùng thưng vào sát cột, gian ngoài thưng ra ngoài cột khoảng 1,5m tạo cho gian ngoài rộng hơn các gian trong. Cũng có khi gian ngoài rộng gấp rưỡi hai gian trong, chưa kể phần thưng ra hè ngoài cột. Gian ngoài (phía gốc dầm dọc) là gian của đàn ông ở và tiếp khách. Gian tiếp theo là của bố mẹ hoặc anh chị nếu bố mẹ đã qua đời. Ngay gốc cây cột thứ hai từ ngoài vào là chỗ đặt bàn thờ tổ tiên, tiếng Thái gọi là “khọ hóng”. Các vùng mường Xia, mường Mìn thì đặt bàn thờ lên trên tường nhà; các vùng mường Mò, mường Hạ, mường Chự, mường Sại thì đặt bàn thờ xuống sàn nhà ngay phía trong gốc cột thuộc gian thứ hai. Thường thường tại đôi cột này đồng bào thưng ngăn nhà gọi là “pha khắn” để ngăn cách gian ngoài tiếp khách với gian trong.
 Trước đây khoảng cách từ gian ngoài cùng vào gian trong thường thưng vách ngăn xuống nửa chiều rộng hoặc thưng xuống suốt từ tường phía trên xuống tường phía dưới. Ở vách thưng (pha khắn) làm cửa đi vào các gian trong. Các gian trong được ngăn nửa phía đầu xà ngang, từng gian riêng biệt có cửa vào gọi là “xuốm”. Gian ngoài để tiếp khách nam và nam giới trong nhà ở. Gian thứ hai để bố mẹ ngủ hoặc vợ chồng anh chị cả ngủ. Góc phía trên để bàn thờ tổ tiên, nếu không có bàn thờ lớn thì làm bàn thờ nhỏ treo lên gần xà ngang giáp pha khắn. Cột thứ hai hàng đầu xà (tính từ gian ngoài vào) chính là cột sáu hóng (cột ma nhà). Có dòng họ bao lại góc trên của gian thứ hai đặt đồ thờ cúng xuống sàn. Có nơi, có họ thì làm bàn thờ lên cao, thường là ở gần xà ngang của cột thứ hai tại góc đầu cạnh nơi nằm của bố mẹ hoặc vợ chồng anh cả gọi là kho lọ hóng, xáu hóng, xáu phí hườn, pàn thờ phí hườn. Chỗ này là chỗ linh thiêng không ai được tự tiện đến nếu không phải là đến thắp hương hoặc vái lạy tổ tiên. Tất cả mọi người trong nhà, kể cả khách khi nằm không được chỉ chân về phía bàn thờ, không được nằm theo chiều xà dọc trong nhà, không được nằm ngược đầu xà ngang, không được ngồi thả chân xuống cửa sổ (hu táng). Từ gian thứ ba trở vào để cho con thứ, nếu bố mẹ còn thì để cho vợ chồng anh cả. Gian phía trong cùng nhất để cho con gái chưa chồng ở. 
Nhìn chung, cách bố trí không gian nhà sàn của người Thái ở Thanh Hóa tương đối giống nhau. Riêng người Thái (Táy Mươi) có vài điểm khác là: Về phần diện tích: gian ngoài (gian khách) thường làm rộng gấp rưỡi các gian trong. Ở dưới gầm sàn, gian ngoài có thêm một cột phụ xáu khang tóng hay xáu cóm chống đỡ vào dầm dọc nên ta nhìn dưới gầm tưởng nhà 5 gian nhưng khi lên sàn thì chỉ có 4 gian. Về ở: đàn ông ở phía ngoài căn nhà, lên xuống cầu thang bên ngoài. Phụ nữ ở phía trong căn nhà, lên xuống cầu thang phía trong căn nhà. Nhà đông người phải dọn nhiều mâm cơm thì ng¬ười già mâm riêng, đàn ông mâm riêng, phụ nữ mâm riêng. Đến bây giờ phụ nữ có thể ăn chung mâm với đàn ông nhưng nếu nhiều mâm thì bố mẹ, anh, chị ăn mâm gian ngoài, em út, trẻ con ăn mâm gian trong. Về ngủ: nhà sàn th¬ường nhiều gian, trong đó gian ngoài rộng hơn để tiếp khách và đàn ông sinh hoạt. Các gian còn lại đều nhau, gian tiếp với gian ngoài là ông bà. Nếu ông bà không còn sống thì phần bố mẹ, nếu bố mẹ không còn thì phần anh cả. Đồng thời đó là nơi tiếp giáp với gian ngoài đặt bàn thờ. Đa phần đặt bàn thờ ở tầm với, một số để xuống sàn nhà, một số lại để trên xà ngang của nhà. Việc để vị trí bàn thờ này tuỳ theo dòng họ và vùng quê ch¬a. Những gian tiếp theo là thứ tự các ngư¬ời con, người em còn lại. Gia đình càng nhiều anh em trai thì nhà càng phải nhiều gian. Trong đó, gian cuối cùng bên trong dành cho những cô con gái chư¬a có chồng, gian bên ngoài (gian khách) là những chàng trai chưa¬ có vợ ngủ. Nếu khách đến nhà là nữ thì khách của ai nằm với người đó, còn người chồng ra gian ngoài ngủ. Nếu khách là đàn ông thì ngủ ở gian ngoài. Đây là tục lệ mang tính truyền thống của người Thái nên trong gia đình ít xảy ra xung khắc. 
Bếp: Người Thái làm bếp trong nhà. Gian đầu, cách cửa khoảng 1,5 - 2m đặt một bếp lửa hình vuông, mỗi chiều rộng 1 - 1,5m để đun nước, nấu canh khi cần, bếp này là bếp của đàn ông. Gian thứ hai cách bờ vách lên khoảng 1 - 1,5m, ngay chỗ phía trong cột thứ hai kể từ ngoài vào đặt một bếp nấu hình vuông hoặc chữ nhật to hơn bếp gian ngoài để nấu cơm, canh hàng ngày. Trên bếp làm một gác bếp để sấy lúa, ngô, sắn và để một số vật dụng, thức ăn phục vụ cho nấu nướng. Bếp này là của phụ nữ, đàn ông không nên vào đó ngồi. Gác bếp có khi dòng dây từ xà nhà xuống, có khi làm bốn cột ở bốn góc bếp để đỡ.
Về công cụ làm nhà, trong phương thức làm nhà truyền thống, người Thái Thanh Hóa chủ yếu sử dụng rìu và dao (dựng nhà có đà), hay bổ sung thêm các công cụ khác như cưa, đục (dựng nhà cột chôn). Trước năm 1950, người Thái Thanh Hóa gần như sử dụng các phần gỗ không qua khâu xử lý bằng bào. Họ sử dụng các công cụ như dao, rìu để tạo mặt nhẵn bằng kỹ thuật đẽo, gọt. Trên thực tế, với người Thái Thanh Hóa, dao là một dụng cụ khá đa năng. Từ sau năm 1950, việc giao lưu văn hóa với nhiều tộc người cùng cộng cư trên địa bàn, người Thái tiếp nhận những công cụ dựng nhà mới, và sử dụng những công cụ này tạo ra những diện mạo mới hơn cho ngôi nhà truyền thống của mình. Đáng chú ý là việc cập nhật cách sử dụng bào từ người thợ mộc Kinh, theo đó nhiều bề mặt gỗ được làm nhẵn, đánh bóng nhờ kỹ thuật bào.
Về thợ làm nhà, trong làng bản người Thái Thanh Hóa luôn có một vài người thợ dựng nhà, họ là những người sở hữu những tri thức dân gian nhất định liên quan đến kỹ thuật dựng nhà cửa. Họ là những cá nhân am hiểu nhất về cách đặt dây dựng nhà, cách đặt cột, lên kết cấu và phối hợp những hợp phần gỗ tự nhiên để dựng thành công một khung nhà chắc chắn nhất có thể. Nam giới trong làng người Thái ở Thanh Hóa ít nhiều đều nắm được những kỹ thuật dựng nhà cơ bản vì họ học được từ việc đổi công giúp nhau dựng nhà. Khi dựng một căn nhà mới, chủ nhà thường nhờ những người có kinh nghiệm làm người đứng đầu, mượn anh em làng xóm tới hỗ trợ đổi công.
Người thợ Thái Thanh Hóa, khi dựng một ngôi nhà truyền thống, sử dụng chính một phần thân thể mình làm thước đo. Tuy nhiên, đối với mỗi mặt bằng khác nhau thì cách tính của người thợ cũng khác biệt chút ít. Khi tiến hành đo chiều rộng của ngôi nhà, họ sử dụng sải tay hoặc khuỷu tay. Ví dụ, một gian nhà rộng thường được tính bằng hai sải tay, tương đương 3m. Nhưng khi đo chiều cao của ngôi nhà, người thợ tính bằng cánh tay hay cùi tay. Những không gian cần độ chuẩn mặt bằng, người thợ tận dụng nguyên lý lấy thăng bằng. Theo đó, người thợ bổ đôi ống nứa bắc hai đầu qua hai cây cột và đổ nước để đánh thăng bằng( ). 
Về những tập tục tín ngưỡng, kiêng cữ liên quan đến xây dựng nhà, cách bố trí nhà truyền thống, người Thái Thanh Hóa dựa vào các yếu tố tự nhiên để dựng nhà, làm sao ngôi nhà đạt được vị thế vững chãi nhất. Phổ biến nhất là việc dựng nhà dựa theo dòng chảy tự nhiên hoặc đường lượn chân núi. Tức là, với ngôi nhà truyền thống của người Thái Thanh Hóa, người ta chọn sông suối hay thế đất thoáng đãng làm chuẩn. Theo đó, nếp nhà sàn quay chiều đòn nóc xuôi theo hướng dòng sông chảy tự nhiên. Như thế, quần thể các ngôi nhà nhìn từ trên cao là một sự trải dọc mềm mại thuận theo dòng chảy tự nhiên. Nếu nhà dựng gần vùng núi, hay lưng dựa núi, mặt nhìn ra khu vực thoáng đãng hay dòng sông, ngọn suối thì quay đòn nóc xuôi theo nét lượn của chân núi. Nếu ngôi nhà tồn tại trong một không gian độc lập không tựa núi, nhìn sông thì đặt đòn nóc theo hướng đông hoặc hướng tây tùy theo dòng họ. Trong cả ba cách đặt nhà trên, người Thái kiêng không đặt nóc nhà mình thẳng với nóc nhà khác. Người ta sợ rằng điều đó sẽ là nguyên nhân gây ra bất hòa giữa những người trong cùng làng bản. Mối quan hệ láng giềng trong làng bản người Thái Thanh Hóa có vai trò rất quan trọng. Tục ngữ của đồng bào có câu:
Nọng pí tang cáy bau pớn tày huốm bán
Tày huốm bán bau pớn ái khí chạn huốm hườn.
Dịch nghĩa:
Anh em xa không bằng người cùng bản
Người cùng bản không bằng anh lười nhác trong nhà.
Qua các cuộc điền dã ở các bản người Thái ở Thanh Hóa cho thấy, đối với ngôi nhà sàn truyền, cửa sổ và cầu thang được đặt trên các nguyên lý tín ngưỡng, thường là số lẻ. Với cầu thang lên nhà sàn, đo đếm bằng số lẻ bước chân người lên và xuống. Người Thái có những cầu thang chẵn số bậc nhưng đó là thiết kế dành cho khi nhà có người chết đưa xác đi mồ. Tương tự, số cửa sổ trong ngôi nhà người Thái Thanh Hóa cũng phải là số lẻ.
Đối với người Thái, mái nhà là một phần quan trọng trong đời sống của mỗi gia đình. Họ có niềm tin ngôi nhà có liên hệ đến các vấn đề như sức khỏe, việc làm ăn, vận hạn của các thành viên trong gia đình, do đó họ có những phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà khá rõ nét. Những hoạt động và thực hành tín ngưỡng nghi lễ liên quan đến ngôi nhà, chủ yếu ở ba khâu:
* Chọn đất, chọn cột, chọn ngày tháng làm nhà: Việc chọn đất làm nhà như đã nói ở trên, ưu tiên nhìn sông hoặc tựa núi nếu không thì dựng nhà ở những nơi quang đãng. Khi chọn đất dựng nhà, người Thái kiêng việc dựng nhà trên thế đất mà nhà nhìn vào ngọn núi nhô ra, nhà bị che khuất bởi các mỏm núi. Chọn đất làm nhà, người Thái hay viện nhờ thầy bói, họ sử dụng phép bói hạt thóc bỏ trong hố, úp chén, bỏ qua đêm để lựa mảnh đất phù hợp để dựng nhà. Khi chọn đất họ dùng một quả trứng ném xuống khu đất định chọn, nếu trứng vỡ thì chọn, trứng không vỡ thì đi tìm khu đất khác. Việc chọn cột nhà có một số kiêng cữ phổ biến như: không chọn cột gãy, cột có dây leo, cột đổ. Người Thái kiêng chặt những cây cổ thụ vì họ tin đó là nơi thần linh cư ngụ.
* Dựng nhà: Ba thời điểm quan trọng trong quy trình dựng nhà có ít nhiều kiêng cữ là việc chọn ngày dựng nhà, ngày dựng cột chính và ngày cất nóc. Ngày dựng nhà theo lịch âm. Nói chung người Thái làm mọi việc đều theo ngày tháng âm lịch. Người Thái tổng hợp thành bài chọn ngày dựng nhà (trừ tháng 4, tháng 7 không làm nhà) như sau:
Mự mốt xi xấu tộc (lý)
Mự xong hộc xấu tắng (lý)
Mự xám bóng nặm ún kin dến (lý)
Mự xi ệt hườn pến pớ mạy (lý)
Mự há chệp xáy pớ phí tò (hại)
Mự hộc tắng mồn mo hặn khắm (hại).
Dịch:
Ngày một 4 cây cột chôn (tốt)
Ngày hai 6 cây cột dựng (tốt)
Ngày ba ống nước nóng uống mát (tốt)
Ngày bốn làm nên nhà nhờ gỗ nứa (tốt)
Ngày năm đau ốm do ma xui (xấu)
Ngày sáu đặt mâm cúng cả ngày (xấu)( )
Tuy nhiên phải tránh ngày kị (chư nhì). Mỗi tháng có một ngày chư nhì. Theo âm lịch, ngày chư nhì các tháng như sau: tháng 1 ngày 6, tháng 2 ngày 1, tháng 3 ngày 8, tháng 4 ngày 3, tháng 5 ngày 10, tháng 6 ngày 5, tháng 7 ngày 12, tháng 8 ngày 7, tháng 9 ngày 2, tháng 10 ngày 9, tháng 11 ngày 4, tháng 12 ngày 11. Ngày tốt (mự toi đói) trong các tháng: tháng 1 ngày 8, tháng 2 ngày 6, tháng 3 ngày 4 và 28 ăn Tết tát nước, tháng 4 ngày 26, tháng 5 ngày 24, tháng 6 ngày 22, tháng 7 ngày 20, tháng 8 ngày 18, tháng 9 ngày 16, tháng 10 ngày 14, tháng 11 ngày 12, tháng 12 ngày 10. 
Do vậy, tuỳ từng tháng mà chọn ngày tốt dựng nhà, tránh các ngày chư nhì. Người Thái có câu:
Xịp mự hại bau pớn mự chư mì
Xịp mự lí bau pớn mự toi đói kháu ngàu vướn húng.
Dịch: 
Mười ngày xấu không bằng ngày chư nhì
Mười ngày đẹp không bằng ngày “toi đói” vào vầng trăng sáng( ).
Từ ngày bảy đến ngày mười thường không làm nhà và những việc lớn. Người Thái làm nhà tránh tháng Giêng, tháng 7, 8 âm lịch hàng năm (tính ngày, tháng bắt đầu khởi công). Từ ngày 11, 21 trở đi tính trở lại như chu kì đầu là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7...
Chọn ngày lợp nhà: Ngày lợp nhà cũng là ngày hệ trọng nên người Thái thường chọn kỹ. Sau khi sắm đủ vật liệu hoặc làm khung mái xong (trừ đòn nóc chưa bỏ), gia chủ tự chọn hoặc nhờ thầy chọn giúp ngày đẹp để lợp nhà. Ngày lợp nhà cũng là ngày bỏ đòn nóc trước khi lợp. Người bỏ đòn nóc nhà là gia chủ, nếu có người thay gia chủ xin đất với ông thổ địa, thổ công thì người xin đất bỏ đòn nóc. Ngày hoàn thành về nhà mới thì bàn giao cho gia chủ chính thức. Cũng có nhà chọn ngày bỏ đòn nóc trước khi lợp. Bỏ đòn nóc, làm hoàn thiện khung mái nhà xong mới chọn ngày lợp nhà. Ngày lợp nhà có thể kết hợp làm lễ khánh thành nhà (mừa hườn mơ) luôn nếu mọi thứ đã được chuẩn bị đầy đủ. Cũng có gia chủ chọn ngày mừng nhà mới (ở nhà mới) riêng. Sau khi lợp xong, hoàn thiện thưng, cửa, cầu thang thì tổ chức chọn ngày về nhà mới. 
* Lễ lên nhà mới: Lễ này đánh dấu việc gia chủ được nhập gia và sử dụng không gian sống này cho gia đình. Trong nghi lễ này, người phụ nữ Thái Thanh Hóa có vai trò quan trọng đặc biệt. Bà chủ nhà, người vợ, là người đầu tiên được lên nhà mới. Bà chủ nhà phải chuẩn bị một số vật dụng có tính nghi lễ liên quan đến việc ăn (đốt bếp nấu xôi, đặt một hai ống nước), ngủ (đặt chăn chiếu vào buồng ngủ) tại ngôi nhà. Sau các lễ thức này, chủ nhà cúng ma nhà, thổ công và long mạch cầu yên, liên hoan cùng anh em, bà con, bạn bè mừng nhà mới.
Tục cúng nhà mới thường chọn ngày đẹp “cân cong, cân xa” thường là ngày 2, 4, 12, 16 âm lịch. Người Thái có cách đếm nếu đến 10, 20 thì trừ hàng chục còn lại số cuối tính là 1, 2, 3, 4.
 Chọn ngày ở nhà mới: Người Thái chọn ngày lành tháng tốt để về ở nhà mới. Ngày bắt đầu về ở nhà mới phải cúng và đặt bàn thờ tổ tiên, mời bà con hàng xóm, họ hàng xa gần đến mừng nhà mới. Có nghĩa là báo với cả âm, dương việc gia chủ có nhà mới, về ở nhà mới, đồng thời mời tổ tiên cùng về ở nhà mới để phù hộ độ trì cho con cháu (xờ phi hườn). 
Đồ lễ cúng: xôi 5 bát, 5 bát nước xuýt (thay canh), 1 con gà trống choai, 1 con lợn (to, nhỏ tuỳ theo mỗi gia đình) rượu, vải thổ cẩm (phá), vòng tay, vòng cổ bạc, tiền mặt đặt vào mâm, cúng xong gia chủ cất các đồ vật đi. Nếu họ hàng, anh em, làng xóm có tiền mừng nhà mới thì gia chủ cũng đặt một phần vào đó để báo với tổ tiên. Gà luộc chín chặt cả con đặt vào đĩa, thủ lợn, một chân trước của lợn xẻ từ vai; mông đuôi lợn luộc chín; lòng, xương sườn lợn nướng trần; thịt nướng cuốn lá bưởi đặt vào mâm, áo của các thành viên trong gia đình gia chủ và áo của người đứng tên thay gia chủ khi xin động thổ (nếu có) đặt cạnh mâm.
Ngoài ra, không gian ngôi nhà còn có những điều quy ước, chẳng hạn như: Các dụng cụ sinh hoạt như chăn, màn, gối, đệm người Thái để ở vách phía đầu mình nằm. Còn quần áo để ở vách phía dưới chân mình nằm. Ghế mây để trong nhà không được để ngửa. Chỉ khi nào trong nhà có người chết mới được để ngửa ghế mây. Trải chiếu cho người sống không được trải ngược, chỉ có trải chiếu cho người chết, cho ma mới trải ngược. Khi nằm trong nhà không quay chân lên phía cột dầm ngang hoặc nằm dọc theo xà dọc. Nằm dọc theo xà dọc dành cho người chết hoặc quan tài. Người Thái đặt gốc xà ngang theo chiều dầm ngang (thống nhất cột và ngọn với nhau). Đồng thời ngủ quay đầu về phía gốc cây với tâm niệm “đầu mình là gốc của con người”. Do vậy phía đầu người nằm thống nhất với gốc cây xà ngang và dầm ngang.
Người Thái cũng duy trì một số tập quán kiêng áp dụng cho các thành viên trong gia đình và khách đến chơi nhà, cụ thể: không được ngồi ở đầu cầu thang, không buông chân xuống nơi cửa sổ, người trẻ không được ngồi phía trên người già, không được nằm quay ngược đầu sàn, không được lấy chân chỉ chỗ cho người khác, lúc người ta đang ngồi không được bước qua mặt, con gái không được mặc váy, áo mỏng đứng trước cửa, ngồi trên nhà phải khép chân... Nếu ai vi phạm thì sẽ bị ma nhà phạt. Thực tế, những kiêng cữ này góp phần điều chỉnh hành vi để người Thái thêm phần thanh lịch.
* Một số biến đổi về nhà ở hiện nay
Theo thông tin điền dã và khảo sát các nguồn tài liệu bổ trợ cho thấy, đến nay, ngôi nhà truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa nói chung có ít nhiều biến đổi trên nhiều phương diện: loại hình nhà, yếu tố vật chất kỹ thuật, yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà. 
Biến đổi về loại hình nhà: Mô hình nhà truyền thống chủ yếu của người Thái ở Thanh Hóa là mô hình nhà cột chôn. Tuy nhiên, từ thập kỷ 50 của thế kỷ XX, trong cộng đồng người Thái, có thêm mô hình nhà sàn cột kê. Nhà cột kê vẫn kế thừa khá trọn vẹn hình thức và dáng dấp của nhà truyền thống Thái Thanh Hóa. Nhà cột kê chia thành hai loại gồm nhà hai hàng cột kê có quá giang và loại nhà bốn hàng cột kê khá giống với nhà người Mường. So với nhà cột chôn, nhà cột kê có ưu thế về tính di động. Tuy không thể so sánh về độ vững chãi, chắc chắn so với loại hình nhà cột chôn truyền thống, nhưng mô hình nhà cột kê rất tiện để di chuyển nhà từ vị trí này đến vị trí khác.
Những biến đổi trong yếu tố vật chất: Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đời sống tộc người gắn với tiến trình đổi mới của đất nước, trong đó nhiều giao thương giữa các tộc người đã diễn ra. Theo đó, các yếu tố vật chất trong việc làm nhà cũng được người Thái học hỏi tiếp thu từ những cộng đồng người khác.
Việc thích ứng, thay đổi và vận dụng các yếu tố vật chất mới, kèm theo đó là áp dụng các kỹ thuật làm nhà mới xuất phát trước tiên từ việc cạn kiệt dần nguồn tài nguyên tự nhiên để dựng nhà. Một vấn đề lớn là việc suy giảm diện tích và chất lượng rừng, kèm theo đó là việc thiếu hụt những dòng gỗ quý phù hợp để làm nhà truyền thống. Mô hình quản lý rừng theo quy hoạch nông - lâm trường trong thập niên 80 của thế kỷ XX cũng tách dần tộc người khỏi quy trình khai thác các nguồn lợi lâm thổ sản, nhất là cây gỗ quý để làm nhà. Chính sự khan hiếm gỗ làm nhà mà số lượng nhà cột chôn trong cộng đồng người Thái Thanh Hóa ngày càng thu hẹp, thay vào đó là sự phát triển mạnh của các mô hình nhà đất, nhà gỗ, nhà xây gạch. Ban đầu, đây là những kiểu dạng nhà được những người cán bộ thoát ly (giáo viên, bác sĩ, cán bộ huyện) học hỏi và xây dựng. Dần dần, chúng trở nên phổ biến và đại trà hóa trước sự cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên. Chẳng hạn, cây gỗ lim Thanh Hóa vốn rất nổi tiếng, là một trong những dòng gỗ quý điển hình ở Việt Nam, đặc dụng trong việc dựng cột, hay làm cửa nhà. Thân gỗ lim Thanh Hóa có sức bền, chịu được mưa nắng, chôn sâu dưới đất không mục ruỗng, mối mọt, có niên hạn sử dụng đến cả vài trăm năm. Tuy nhiên, lim Thanh Hóa và những dòng gỗ quý khác đã gần như biến mất trước nhu cầu sử dụng ồ ạt của thị trường xây dựng vùng xuôi. (Hiện nay trên địa bàn Quan Sơn chỉ còn đồi lim bản Tân Sơn, xã Sơn Điện trồng năm 1964, rộng khoảng 2ha).
Những yếu tố vật chất khác thay đổi cùng thời gian, có thể thấy được là các vật liệu lợp nhà. Mái cọ truyền thống vẫn tồn tại bên cạnh những vật liệu mới như mái ngói, mái phi pro-xi măng, mái tôn hay nhựa. Khung nhiều căn nhà sàn mới hiện nay vẫn ưu tiên sử dụng gỗ, nhưng thay vì các dòng gỗ quý hiếm truyền thống, các loại gỗ tạp, gỗ từ rừng trồng có chất lượng kém hơn được thay thế hoặc người dân lựa chọn sử dụng khung cột bê tông chịu lực. 
Những người thợ làm nhà ở các vùng người Thái Thanh Hóa đa dạng và chuyên môn hóa hơn so với truyền thống. Từ thập kỷ 90 về sau này, hình thành nên những đội thợ chuyên làm nhà. Nhóm thi công có thể là người Thái hoặc gồm cả người Kinh hoặc cơ cấu lẫn Kinh - Thái. Tiếp sau sự đa dạng hóa về đội ngũ thợ, nhiều kỹ thuật dựng nhà, làm nhà đã được triển khai và áp dụng để việc dựng một ngôi nhà được thuận tiện và nhanh chóng hơn. Nếu như trong thập niên 50, người Thái mới chỉ cập nhật những công cụ thủ công để hoàn thiện các chi tiết của ngôi nhà như bào và kỹ thuật bào nhẵn mặt gỗ thì ngày nay, đồng bào sử dụng nhiều loại trang thiết bị công nghiệp như cưa máy, khoan máy, bào máy, thước đo các loại, công cụ lấy thăng bằng lito, máy đầm dũi... hay những dụng cụ xây dựng như bay, xoa để làm nhà. Đương nhiên, các công cụ làm nhà truyền thống như búa, rìu, dao vẫn góp phần quan trọng trong việc dựng nhà của người Thái.
Về kỹ thuật dựng nhà: Nhà người Thái Thanh Hóa từ truyền thống đến hiện tại phản ánh một quy trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp( ). Một nghiên cứu khảo sát lập luận rằng, chính việc kiện toàn các kỹ thuật dựng nhà cùng thời gian, qua các mô hình nhà khác nhau thể hiện điều này, cụ thể như việc dùng dây lạt buộc tới sử dụng con xỏ, từ dùng ngoãm tự nhiên, hay tác tạo đến việc dùng mộng hay phối kết hợp các hình thức với nhau... để rồi việc sử dụng dây và ngoãm dần dần biến mất. Trong truyền thống, người Thái không thích việc cưa xẻ và ưu tiên sử dụng các thân gỗ tròn nguyên khối, nhưng hiện nay đồng bào cũng phải chấp nhận việc xẻ mỏng khối gỗ để có đủ gỗ gia công các hạng mục trong nhà như hệ vát lát, bậc cầu thang...
Thực tế, việc thay đổi và tích hợp nhiều yếu tố kỹ thuật dựng nhà của người Thái không hẳn là một lũy tiến cho sự phát triển về mặt kỹ thuật mà thực tế, trong những hoàn cảnh cụ thể, trước những đòi hỏi cụ thể mà đồng bào có sự cân nhắc phối hợp hay lựa chọn sử dụng những biện pháp kỹ thuật phù hợp hơn. 
Cầu thang là kết cấu kỹ thuật có nhiều thay đổi khá rõ. Nhà sàn truyền thống cột chôn của người Thái ưa thích lối cầu thang đơn giản, bằng các cây gỗ tròn, đẽo lõm đặt bậc buộc dây mây. Vài thập kỷ gần đây, cầu thang được chăm chút hơn, với các họa tiết trang trí giản dị, đẹp mắt như mô típ đầu rồng. Các bậc thang làm bằng gỗ được bào nhẵn, ghép bậc, chốt mộng rất chắc chắn. Một số loại hình cầu thang có thiết kế lối đi cho xe máy lên xuống được thuận lợi.
Biến đổi trong quy cách dựng nhà: Một trong những thay đổi khá triệt để là việc chính xác hóa công cụ đo lường. Với mô hình nhà truyền thống, người thợ sử dụng một phần thân thể (cánh tay, sải tay, khuỷu tay) để ước định khoảng cách và chiều cao ngôi nhà nhưng đã từ lâu, người Thái quen với việc sử dụng thước thợ, hay thước mét để đo chuẩn khi tiến hành dựng nhà.
Nguyên tắc chọn đất làm nhà cũng có những thay đổi nhất định. Ngoài những vị trí truyền thống, nhà của người Thái ở các vùng thị tứ, thị trấn, gần các lộ giao thông có khuynh hướng bám đường. Các ngôi nhà bố trí rải rác dọc theo lộ hoặc tập trung tại một điểm thuận lợi cho giao thương.
Biến đổi mặt bằng sinh hoạt: Thay đổi rõ nét nhất đối với mặt bằng sinh hoạt của ngôi nhà sàn Thái là từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX đến nay, không gian gầm sàn từ chỗ dành để nuôi giữ gia súc đã chuyển dần thành một không gian khác. Phổ biến, người ta chuyển đổi gầm sàn thành nơi để một số nông cụ và công cụ sản xuất, để xe máy hay các vật dụng khác. Một số hộ gia đình chuyển đổi không gian này thành khu vực có vách ngăn, lát gạch tạo thêm một phần không gian cho căn nhà, phù hợp với nhiều mục đích sử dụng, để ở, để tiếp khách hay lưu trữ vật dụng như lúa mùa vụ mới thu hoạch về.
Biến đổi trong quan hệ xã hội và phong tục tập quán liên quan diễn ra trong ngôi nhà: Cùng với sự thay đổi các mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời kỳ đổi mới, theo sau những thay đổi các yếu tố vật chất, các yếu tố xã hội và phong tục tập quán liên quan đến ngôi nhà của người Thái cũng dần thay đổi, chậm hơn những thay đổi thấy rõ ở các yếu tố vật chất hay kỹ thuật. Những phong tục liên quan đến việc chọn ngày, chọn đất, dựng cột, cất nóc vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, trong khi thực hiện những thủ tục này, người Thái thường có xu hướng đơn giản hóa nghi lễ mà vẫn đảm bảo đúng tiến trình. Những kiêng cữ trong việc chọn gỗ làm nhà dần mai một vì hiện nay người ta không còn điều kiện để áp dụng hay đúng hơn là môi trường phù hợp để thực hành những kiêng cữ này đã gần như biến mất.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi của nhà người Thái nói chung. Dựa vào khảo cứu, chúng tôi cho rằng, các nguyên nhân sau có vai trò nổi trội hơn cả:
Thứ nhất, sự tác động của điều kiện tự nhiên, môi trường sống của tộc người. Những thay đổi về môi sinh và điều kiện tự nhiên, cùng với sự suy giảm và cạn kiệt nguồn nguyên vật liệu khiến cho việc xây dựng những ngôi nhà Thái truyền thống không thể thuận lợi được như trước. Với tốc độ phát triển nhanh của cư dân, nhu cầu về gỗ làm nhà đã vượt trên mức cung cho phép của rừng và ngay cả hình thức rừng trồng cũng chưa thể cung ứng đủ gỗ xây dựng nhà sàn trong bối cảnh hiện tại.
Thứ hai, quá trình giao lưu văn hóa: Trong nhu cầu gia tăng về nhà ở, cùng sự khan hiếm các nguồn lực tự nhiên như gỗ để làm nhà, dĩ nhiên, cộng đồng tộc người sẽ lưu ý tới những giải pháp thay thế phù hợp và khả dụng. Người Thái cho thấy, họ từng bước năng động áp dụng và chuyển đổi từng phần hoặc toàn phần những giải pháp làm nhà của các tộc người xung quanh như mô hình nhà của người Mường và người Kinh. Tiến xa hơn, họ học hỏi, thuê mướn và trau dồi kỹ thuật dựng nhà từ các tộc người láng giềng để đa dạng hóa ngôi nhà Thái với nhiều kiểu loại, chi tiết mới nhưng vẫn đan xen những yếu tố văn hóa Thái của tộc người mình.
Thứ ba, tác động của chính sách nhà nước: Ngoài những nguyên nhân kể trên, chính sách nhà nước về sử dụng đất đai (đặc biệt là giao đất, giao rừng), chăm sóc và bảo vệ rừng, quản lý vùng nguyên liệu, quản lý nông - lâm trường... cũng có tác động nhất định đến việc hình thành và phát triển các mô hình nhà ở của người Thái. Những hình thức quản lý thuộc khuôn khổ chính sách nhà nước đã trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế người Thái tiếp tục khai thác nguồn lâm thổ sản, nguồn tài nguyên gỗ để xây dựng nhà. 
Trong nếp nhà sàn cổ của người Thái chứa đựng bao điều đáng được tôn trọng, chẳng hạn về kiến trúc, tâm lý, tình cảm, phong tục, tập quán, nề nếp sinh hoạt tốt đẹp thường ngày cũng như ý niệm về tín ngưỡng tôn giáo của người Thái cổ... Ngày nay nó đang được nhanh chóng biến tấu các nét kiến trúc tạo hình và mất đi một số nội dung chứa đựng trong nếp nhà sàn để phù hợp với sự biến chuyển nhanh chóng của xã hội. Vì thế nhà sàn cổ của người Thái cần được nghiên cứu, khảo tả, bảo tồn. 
Nhà ở là một trong những vấn đề có lịch sử nghiên cứu lâu dài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà dân tộc học, nhân học. Nhiều nhà dân tộc học đã phát hiện ra rằng, nơi cư trú - những ngôi nhà của con người khắp nơi trên thế giới có những điểm tương đồng và khác biệt thú vị, để có thể xem xét phân loại, nhóm chung các mẫu hình nhà cửa với nhau. Với các nhà dân tộc học, nhà ở của các tộc người, không đơn giản chỉ là một mô hình kiến trúc hay kết cấu vật chất mà nó là một dạng thức văn hóa vật chất đáng chú ý, qua đó giúp các nhà nghiên cứu hiểu được nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội và thẩm mỹ cũng như quá trình trao đổi, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người. Trong tương quan cấu hình xã hội gồm nhà - làng - nước, ta có thể hiểu một ngôi nhà tương ứng với một thành tố góp phần tạo nên làng và rộng hơn là một phần của văn hóa cộng động. Ngôi nhà, chính là phần cơ hữu gắn bó mật thiết với hộ gia đình, một khía cạnh nào đó, được xem như các tế bào của xã hội. Do đó, trong dân tộc học, góp phần nghiên cứu tìm hiểu về ngôi nhà và những khía cạnh văn hóa liên quan, sẽ mở ra những chiều cạnh, chẳng hạn hướng vào con người cụ thể hay hướng ra cộng đồng (gia đình - làng bản) hoặc liên thế hệ (tổ tiên đã khuất núi)... Như thế, ngôi nhà là “một phức hợp văn hóa tộc người” ngoài chức năng kỹ thuật, còn đảm nhận các chức năng xã hội, chức năng tín ngưỡng và chức năng thẩm mĩ. Hiện nay đã xuất hiện ở các vùng của người Thái những ngôi nhà ống, nhà xây cao tầng, hay kiểu nhà biệt thự sang trọng. Đây là xu hướng chung và nó được các chủ thể văn hóa chấp nhận. Như vậy, có nghĩa là người ta có thể thay đổi cái vỏ văn hóa của nhà cửa nhưng các tập tục tốt đẹp vẫn cần được duy trì theo truyền thống tộc người. 
6.1.5. Văn hóa tinh thần
6.1.5.1. Ngôn ngữ
a. Đặc điểm tiếng nói: Ngôn ngữ bao gồm cả tiếng nói và chữ viết. Tiếng nói của người Thái ở Quan Sơn cơ bản giống người Thái các huyện trong tỉnh Thanh Hóa, người Thái ở Việt Nam. Tuy nhiên do địa hình phân dị khá phức tạp cùng với lịch sử cư dân nên trong mỗi vùng trên địa bàn Quan Sơn cũng có nét khác nhau về phát âm. 
- Vùng mường Mìn, mường Xia: Người Thái Xia, Mìn có tiếng nói cơ bản giống người Thái ở trong huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát tỉnh Thanh Hóa và cư dân Thái ở tỉnh Hủa Phăn (Sầm Nưa) nước bạn Lào. Ví dụ: Người Thái Tây Bắc nói rìu là “mác khoan”, con dao “mác mịt hay pạ”. Người Thái ở đây nói rìu “mác khoan”, con dao “mác mít”... Tuy nhiên, giọng nói thường nhẹ, ngân dài( ). 
Về xưng hô: Vùng mường Mìn, mường Xia phân theo các dòng họ và chức danh dòng tộc để xưng hô:
Dòng dõi tạo mường gọi cha (bố) là “ống”,
Dòng dõi tạo quán gọi bố là “chá”
Dòng dõi các họ dân gọi bố là “ái”
Các dòng họ đều gọi chung mẹ là “ệ”
Các dòng họ đều gọi chung ông nội là “pu”
Các dòng họ đều gọi chung bà nội là “ệ áu” hoặc “ệ héo”
Các dòng họ đều gọi chung ông ngoại là “ộng”
Các dòng họ đều gọi chung bà ngoài là “ệ nài” hoặc “nài”
- Vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ: Giọng nói nhanh, cứng hơn vùng mường Xia, mường Mìn.
Về xưng hô: 
Dòng dõi tạo mường gọi cha (bố) là “ống”
Dòng dõi tạo quán gọi bố là “chá”
Dòng dõi các họ dân gọi bố là “ó” hoặc “ái”
Các dòng họ đều gọi chung mẹ là “ệ”
Các dòng họ đều gọi chung ông nội là “pu”
Các dòng họ đều gọi chung bà nội là “áu” hoặc “ệ héo”, “ệ áu”
Các dòng họ đều gọi chung ông ngoại là “ộng”, hoặc “ông ộng, chá ộng, ái ộng”
 Các dòng họ đều gọi chung bà ngoại là “nài” hoặc “ệ nài”.
- Vùng mường Chự: Giọng nói vùng này nhanh và cứng hơn vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ, mường Mìn, mường Xia.
Về xưng hô:
Tất cả các dòng họ (tạo mường, tạo quán, dân thường) đều gọi bố là “cha”
Tất cả các dòng họ gọi mẹ là “mệ”
Tất cả các dòng họ đều gọi ông nội là “ống”; bà nội là “áu” hoặc “ệ áu”
Tất cả các dòng họ đều gọi ông ngoại là “chá ộng” hoặc “ộng”; bà ngoại là “nai” hoặc “mệ nai”.
Tất cả các dòng họ của các mường (các xã) ở Quan Sơn đều gọi anh của bố là “lung” hoặc “chá lung, ông lung, ái lung”; chị của bố là “pá” hoặc “ệ pá, mệ pá”.
Các em trai của bố (cả em ruột và em họ) đều được gọi là “ao”, em gái của bố (cả em ruột và em họ vùng các bản thuộc mường Ca Da) đều được gọi là “á”, các bản khác gọi là “cụa”.
Tất cả các dòng họ đều gọi em ruột của mẹ (cả trai và gái) là “nạ”.
Tất cả các dòng họ đều gọi em dâu của bố là “lua”, riêng các bản thuộc mường Ca Da (xã Trung Xuân) gọi là “á pợ”; em rể của bố được gọi là “ao khưới”.
Về thứ tự các con của mình: Tùy theo vùng và dòng họ mà có cách xưng hô khác nhau.
+ Ở vùng mường Xia, mường Mìn, mường Chự, con cả là con trai dòng tạo mường, tạo quán, tạo pọng gọi là “tạo tiêu”; người thứ hai gọi là “tạo hái”; người thứ ba gọi “tạo bá”. Nếu con đầu là con gái gọi là “nàng a”, người thứ hai gọi là “nàng ót”, người thứ ba gọi là “nàng lá”, rồi đến “nàng lá tớp”, “nàng lá nọi”... 
Các dòng họ dân thường, gọi anh cả, chị cả là “ông” (cha ông, ới ông), người thứ hai gọi là “cang”, người thứ ba gọi là “ót”, người thứ tư trở đi gọi là “lá”. Dòng họ tạo kiêng đặt bí danh Tạo Ót, Nàng Cang do hai người thứ này đều bị cọp (hổ) bắt ăn thịt.
+ Ở mường Mò, mường Sại, mường Hạ, dòng họ tạo gọi anh cả là “hiến” - “tạo hiến”, anh hai là “tiêu” - “tạo tiêu”; anh thứ ba trở đi gọi là “tạo lá” (lá tớp, lá nọi). Đồng thời cũng kiêng đặt tên Tạo Ót, Nàng Cang như các mường khác ở Quan Sơn. Còn các họ dân thường thì con trai con gái cả gọi là “ông”; con thứ hai gọi là “cang”, con thứ ba gọi là “ót”, từ con thứ tư thì gọi là “lá” (lá tớp, lá nọi). Riêng tạo mường Mìn, anh hay chị nhưng sinh con sau em thì con của mình vẫn là em. Dù là em nhưng sinh con trước thì người con của em vẫn là anh hoặc chị của con bác (Cùng cành ai thấy mặt trời trước thì làm anh chị)( ). 
b. Chữ viết
Bên cạnh chữ Thái Tây Bắc, người Thái ở Quan Sơn chủ yếu sử dụng chữ Thái cổ Thanh Hóa. Đây là kết quả nghiên cứu khoa học cấp tỉnh do tác giả Hà Văn Thương làm chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được UBND tỉnh Thanh Hóa phê duyệt tại Quyết định số 199/QĐ-UBTH ngày 20/01/2015. Theo đó, bộ chữ Thái cổ Thanh Hóa có 43 chữ cái (phụ âm) và 23 nguyên âm.
Phong trào truyền dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Thái ở Quan Sơn đang được khơi dậy. Từ năm 2013 đến nay, mỗi năm Trường THPT Quan Sơn đều tổ chức dạy cho hàng trăm học sinh biết đọc, biết viết chữ Thái. Trên cơ sở đó, học sinh và nhiều người tâm huyết với chữ Thái ở các lứa tuổi khác nhau trên địa bàn huyện có dịp được tiếp cận với chữ Thái Thanh Hóa. Hiện nay trên địa bàn huyện Quan Sơn đang dấy lên phong trào học chữ Thái cổ và chữ Thái thống nhất do Hội Dân tộc học và Nhân học huyện phối hợp với Phòng Giáo dục và Đào tạo và các trường trên địa bàn thực hiện. 
Chữ Thái Thanh Hóa có nguồn gốc chung từ bộ chữ Thái hình thành trong khu vực Đông Nam Á, cách đây hàng nghìn năm. Người Thái Thanh Hóa sử dụng hai bộ chữ. Một là chữ Tày Đeng, hai là chữ Tày Dọ. Chữ Tày Dọ tương tự như chữ người Tày Dọ ở Phủ Quỳ (Nghệ An) và chỉ có người Tày Dọ ở Trịnh Vạn sử dụng. Chữ Tày Đeng phổ biến ở tất cả các vùng người Thái ở Thanh Hóa, kể cả trong vùng người Tày Dọ. Do vậy, có thể xem chữ Tày Đeng đại diện cho chữ Thái vùng Thanh Hóa.
Chữ Thái Thanh Hóa và các bộ chữ Thái ở Tây Bắc đều mang đặc điểm chung của chữ Thái cổ là loại chữ ghi âm, ghép vần, dùng chữ thay dấu thanh, nét chữ uốn cong, đuôi dài mềm mại, viết theo hàng ngang, từ trái sang phải. So với chữ Thái Đen, đã được dùng làm chữ Thái chung khu vực Tây Bắc, thì chữ Thái Thanh Hóa còn giữ được đặc trưng chữ Thái cổ là chữ cái mang tính hình tượng. Chữ Thái Thanh Hóa còn chú ý tuân thủ các quy tắc ban đầu như: hình dạng chữ cái giống như hình ảnh cách điệu của sự vật hiện tượng cùng tên. Ví dụ: mai ca lấy hình tượng con quạ, mai kia lấy hình tượng con dơi, tô to lấy hình tượng con vật chuẩn bị tư thế húc nhau, tô xo giống hình người ngửa tay xin... Đặc điểm này giúp cho người học dễ nhớ vì gắn với tư duy hình tượng, người viết không phóng tay lệch xa quy ước ban đầu. Mặt khác chữ cái ghi một âm có quy tắc kết hợp với tên gọi, có giá trị ghép vần như chữ Quốc ngữ. Nhìn vào hình thức, chữ Thái Thanh Hóa vừa mang tính tượng hình vừa tượng thanh. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, bất cứ ở mường nào của người Thái ở Thanh Hóa cũng đều có nhiều người thông thạo chữ Thái và lưu giữ các loại sách viết tay trên giấy bản. Kiểu chữ Thái Thanh Hóa hiện nay vẫn phải ghi chép bằng tay trên giấy. Khi viết, đặt nét bút từ bên trái kéo sang phải theo chiều quay của kim đồng hồ. Chữ viết liền, không cách âm tiết, chữ đuôi dài, mềm mại, kết hợp với các ký tự hoa mỹ, tạo ra trang viết như một tấm thảm thêu dệt hoa văn. Trong khi đó, ở Tây Bắc, những quy tắc này không còn được quan tâm nhiều, chỉ tập trung vào việc sử dụng làm công cụ ghi chép tiếng nói.
Trong thực tế, chữ Thái được truyền dạy chủ yếu theo phương pháp dân gian, ai biết thì dạy, ai thích thì học. Người ta cũng khuyến khích, đề cao giá trị của chữ nghĩa. Tục ngữ có câu: “Tháu xứ nắng nứa, tháu phứa tháy nắng tớ.” (Nghĩa là: Già chữ nghĩa ngồi trên, già cày bừa ngồi dưới); “Bau hụ xứ, khoăn lóc bau pên xư có bau hụ” (Nghĩa là: Không biết chữ, bản thân mình hư cũng không tự biết). 
Xưa kia, bản nào của người Thái cũng có người biết chữ Thái. Thậm chí, trong các mường, còn có người làm nghề viết chuyên nghiệp gọi là tư xư, người làm thư ký cho tạo hoặc lý trưởng, chánh tổng gọi là tư chía. Cả người Mường ở mường Mìn cũng học và dùng chữ Thái, bởi vì chính quyền thời Pháp thuộc tuyển chọn công chức yêu cầu phải biết chữ Thái. 
Chữ Thái được sử dụng rộng rãi, vì nó mang tính khoa học và tiện ích. Chữ Thái mà người Thái ở Quan Sơn dùng là bộ chữ Thái Thanh Hóa (còn có thể gọi là chữ Thái Tày Đanh). Bộ chữ này có các đặc điểm chính như sau: Mang đặc điểm chung của chữ Thái Việt Nam. Đó là loại chữ ghi âm, ghép vần (tượng thanh). Bộ chữ cái gồm có tô và mai. Tô là phụ âm. Mai là nguyên âm và vần. Chữ viết hàng ngang, từ trái sang phải, viết liền, không cách âm tiết. Nét chữ cong, uốn lượn, đuôi dài, trông như hình hoa văn, cho nên người Thái gọi chữ là lai. Lai nghĩa là hoa văn. Sau này nói rõ hơn là lai xư. Dùng chữ thay dấu thanh. Mỗi phụ âm dùng hai chữ cái để ghi. Một chữ ghi thanh thấp, một chữ ghi thanh cao. Hình dạng chữ cái và tên gọi chữ mang tính hình tượng. Khi viết đặt nét bút từ trái kéo sang phải theo chiều quấn dây cù (chiều kim đồng hồ); đuôi chữ dài, ôm lấy các chữ khác trong âm tiết; hình dạng con chữ giống hình tượng của sự vật hiện tượng cùng tên. 
Văn bản chữ Thái ở Quan Sơn: Văn bản chữ Thái ở Quan Sơn viết trên giấy dó còn lưu lại gồm nhiều loại, như: ghi chép lịch sử gia đình, dòng họ, bản mường. Bên cạnh đó là các văn tự vay mượn, cầm cố đất đai, ghi chép địa giới bản mường, nhân khẩu, ruộng đất, kê biên các khoản đóng góp, biên bản cam kết, thư từ, trình tấu...
Về sách chữ Thái ở Quan Sơn, có ba loại sách được nhân bản nhiều nhất là thơ trữ tình, truyện thơ và các bài mo. Thơ trữ tình (xư bặc) có nhiều thể dạng, bày tỏ trực tiếp tình cảm của tác giả, trong đó có xư pói nhan (dạng viết thư), xắng chụ (tiễn dặn người yêu). Truyện thơ có ba loại chính, bao gồm: truyện thơ Thái cổ, truyện thơ dịch và truyện thơ sáng tác. Truyện thơ Thái cổ phổ biến ở Quan Sơn là các tác phẩm: U Thềm, Xi Thuần, Tạo Khun Lù Nàng Úa Tiềm. Truyện thơ sáng tác theo cốt truyện của Trung Hoa như: Xư Thánh (cốt truyện Tam quốc diễn nghĩa), Xan Lương (cốt truyện Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài). Dịch truyện Nôm khuyết danh của người Việt ra thơ Thái, gồm có: Chàng Nguyên (Tống Trân - Cúc Hoa), Chàng Cung (Phạm Công - Cúc Hoa), Chàng Tư (Hoàng Trìu). Truyện thơ sáng tác gắn với cốt truyện của địa phương, tiêu biểu là Tư Mã Hai Đào, truyện Pha Dùa. Sách mo có tên là Xư khoam gồm có các loại mo đám tang (khoảng 30 bài), các bài tế thần, cúng cơm mới, cầu vía, bùa chú, xem ngày giờ, số tử vi... Điều đặc biệt trong các sách mo ở Quan Sơn (bản của cụ Phạm Xuân Liêm ở bản Nhài, xã Sơn Điện, bản của ông Phạm Bá Thược ở mường Mìn và một số bản khác còn lưu giữ) đều có dấu (triện) và chữ kí của quan bản và chính quyền. Theo cụ Phạm Xuân Liêm, ở Quan Sơn các thầy mo thời phong kiến muốn mo cho người chết chỉ được mo những văn bản có chữ kí xác nhận và dấu triện của chính quyền các cấp. 
Nhìn chung, văn bản chữ Thái ở Quan Sơn bị tiêu hủy và mất mát nhiều vào nửa cuối thế kỷ XX. Lý do chủ yếu là do nhận thức chưa đúng về di sản văn hóa nên cho rằng, sách vở cũ là tàn tích phong kiến và mê tín dị đoan. Mặt khác, do không duy trì việc dạy và học chữ Thái, chỉ còn ít người đọc được, viết được, nên sách chữ Thái ít được sử dụng phổ thông. Vì vậy, người ta có thể chôn theo người chết hoặc dùng để gói thuốc lào... Những nơi người ta truyền tụng là nhiều sách như nhà lang đạo, chức sắc cũ, những người hâm mộ văn học hầu như không còn giữ được sách cổ. Từ năm 1996, một số người đã sưu tầm được văn bản cổ ở các vùng mường Mìn và mường Xia, những văn bản này chủ yếu đang nằm ở một số gia đình nhà thầy cúng, thầy mo, gia đình người giúp việc nhà tạo. Có một số gia đình còn giữ được trên một chục đầu sách như nhà ông Phạm Xuân Liêm ở bản Nhài, Sơn Điện, nhà ông Phạm Bá Thược ở mường Mìn... Ngoài ra, còn các văn bản hiện nằm rải rác các nơi, trong các gia đình, các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc, Bảo tàng tổng hợp Thanh Hóa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, trong các sách của thầy mo, thầy cúng, thông qua các bài mo ma, làm vía, khặp một, khặp mùn, thờ thần, cúng khấn,... Những văn bản này, chứa đựng nhiều kiến thức văn học, lịch sử, địa lý... Sách ghi chép về kiến thức, gọi là xư khoam, gồm có các loại giống trồng trên nương rẫy, chọn giống trâu bò, các loại thuốc Nam... Có thể nói rằng, sách chữ Thái cổ ở Quan Sơn đã từng có thời kỳ phát triển và có giá trị nhất định chi phối đời sống tinh thần, vật chất của cộng đồng dân cư. Đó là một di sản cần được tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, khái thác và phát huy các giá trị tích cực.
6.1.5.2. Phong tục, tập quán
a. Phong tục vòng đời
Phong tục vòng đời là các nghi lễ, nghi thức diễn ra liên quan, gắn liền với vòng quay cuộc đời của mỗi con người. Chu trình này bắt đầu từ khi con người sinh ra và kết thúc bằng cái chết (dù đó là lý do gì). Người Việt (người Kinh) nói chung, người Thái, người Mường và một số dân tộc khác còn lưu giữ và thực hành khá nhiều những phong tục tập quán liên quan đến chu kỳ vòng đời người. Có thể chia các phong tục, tập quán này thành các nhóm sau:
* Các phong tục, tập quán liên quan đến việc mang thai và sinh đẻ
Cũng giống như phụ nữ các dân tộc khác, việc sinh đẻ của người phụ nữ dân tộc Thái ở Quan Sơn cũng theo đúng với quy luật phát sinh - phát triển của tự nhiên, nhưng nó lại gắn với rất nhiều những phong tục, tập quán tích cực có và hạn chế, lạc hậu cũng không phải là ít( ). Đối với họ, mỗi đứa trẻ ra đời là một sự kiện trọng đại không chỉ của một gia đình mà còn là niềm vui của cả dòng họ. Sự ra đời của đứa trẻ, nhất là trẻ trai sẽ đáp ứng mong muốn của họ về việc nối dõi tông đường và tăng thêm số người trong họ tộc.
Người Thái ở đây quan niệm “đông con lắm phúc, nhiều lộc”; cặp vợ chồng nào không sinh được con thì bị coi là vô phúc, là do kiếp trước ăn ở không tốt hay đã phạm vào điều cấm kị nào đó. Quan niệm này của người Thái cũng là quan niệm chung của đa số các dân tộc mưu sinh bằng nghề nông nghiệp truyền thống, có nhu cầu cao về sức lao động của mỗi gia đình.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây dưới tác động của sự phát triển giáo dục dân số, cùng với công tác tuyên truyền về kế hoạch hóa gia đình, người Thái đã có những nhận thức tốt về việc sinh con thứ ba, tình trạng sinh nhiều con đã giảm rõ rệt so với trước đây. Ngoài ra, đời sống ngày một nâng cao, nhu cầu hưởng thụ, học tập và tham gia các công tác xã hội cũng như phát triển cá nhân, gia đình, tương lai ngày càng lớn cũng là nguyên nhân làm giảm tỉ lệ sinh trong cộng đồng người Thái ở Quan Sơn. Bước đầu họ đã có được những thay đổi về ý thức chăm sóc và nuôi dạy con, đặc biệt là đầu tư cho chăm lo sức khỏe và việc giáo dục con cái.
Một số kiêng kỵ của người phụ nữ Thái khi mang thai: Trong quá trình mang thai, người mẹ luôn luôn thận trọng giữ gìn, tránh mọi sự tác động có hại cho sức khỏe và tình cảm ảnh hưởng đến thai nhi. Chẳng hạn không mang vác nặng, không đi đưa đám, không xem mổ trâu mổ bò, tránh nghe những chuyện hãi hùng, không chọc tiết súc vật, không đội lá xanh lên đầu, tránh cáu gắt, nói tục...
Nơi sinh đẻ và ở cữ: Ngày nay do sự phát triển về mọi mặt, trong đó có nhận thức về sức khỏe cũng như kinh tế, đa số phụ nữ của các dân tộc cũng như phụ nữ Thái thường đến các cơ sở y tế để sinh con. Tuy nhiên trước đây còn một bộ phận nhỏ những gia đình không đưa sản phụ đến các cơ sở y tế khi đau đẻ. Một phần nguyên nhân là do điều kiện kinh tế của một số gia đình còn khó khăn, mặt khác do đường sá ở miền núi còn quá khó khăn. Nhưng một phần đáng kể trong nguyên nhân của việc sinh con tại nhà là do thói quen và tập quán của đồng bào, trong đó có đồng bào dân tộc Thái ở Quan Sơn. Theo tập quán của người Thái, khi phụ nữ sắp sinh sẽ được gia đình chuyển đến ở gian bếp. Việc sinh đẻ được thực hiện ngay ở gian bếp này. Bà con giải thích rằng, họ kiêng đẻ ở nhà trên vì sợ máu đẻ bẩn làm ô uế bàn thờ tổ tiên, sẽ gây điều xấu cho gia đình và gia đình đó sẽ làm ăn không được may mắn. Mặt khác, việc sinh ngay cạnh bếp lửa sẽ giúp cho sản phụ cũng như đứa trẻ được sưởi ấm ngay sau cuộc vượt cạn. Nhưng quan trọng hơn cả là do quan niệm của người Thái, lửa sẽ giúp xua đuổi những ma quỷ có thể đến làm hại sinh linh bé nhỏ vừa ra đời. Cũng theo phong tục của người Thái, phụ nữ sau khi sinh nở được “mẹ tròn con vuông” phải nằm bên bếp lửa 4 - 5 ngày, sau đó mới được gọi là “tạm sạch sẽ”, mới được chuyển lên nằm buồng cũ của hai vợ chồng, nhưng ban ngày vẫn phải xuống ngồi sưởi bên bếp lửa cho hết một tháng.
Chuẩn bị chỗ nằm cho sản phụ và bếp sưởi: Khi trong nhà có người chuẩn bị đẻ, người nhà kê sạp, trải đệm, chuẩn bị gối kê đầu, chăn đắp và để hai sọt mới phía cuối giường, một sọt để đựng tả sạch cho trẻ, một sọt để tả bẩn. Người chồng mang củi to vào nhóm lửa ở bếp sản phụ (bếp đã được chuẩn bị trước). Chồng không phải đi làm gì ngoài việc chăm lo cho vợ ăn uống, đun nước thuốc cho vợ tắm. Sau khi đẻ xong, sản phụ được vệ sinh sạch sẽ, rồi được các bà trong nhà dìu đến ngồi cạnh bếp lửa. Việc ngồi hơ lửa sẽ có tác dụng làm cho máu bẩn dồn xuống và ra hết, như thế mới mau “sạch người”. Người Thái cho rằng nếu để sản phụ vào nằm ngay thì sẽ không được tốt vì máu sẽ dồn lên phía đầu, sẽ đau đầu và choáng, máu bẩn sẽ lâu sạch. Khi sản phụ ngồi vào ghế rồi, trước tiên là cho sản phụ uống bát nước lá cây thuốc “phang” nóng, vừa uống vừa thổi (pấu sọt) để chóng lấy lại sức.
Khi nằm, phải chú ý cho đầu sản phụ và cả đứa bé đều quay vào hướng trong nhà, chân quay ra ngoài cửa. Sản phụ chủ yếu ngồi ghế mây (tắng căm bươn), trên mặt ghế lót váy cũ, dưới gầm ghế cho than nóng, lá thuốc phủ lên trên than để hơi thuốc bốc lên tỏa vào người sản phụ. Từ trên cao lấy khăn piêu buộc thành dây thả thẳng xuống chỗ ngồi để sản phụ vịn giữ khi ngồi cho thăng bằng. Ngồi mỏi lại vào nằm, nhưng dù nằm hay ngồi vẫn phải quay lưng để hơ lửa, sưởi cho ấm đều khắp người, kết hợp xông lá thuốc và uống nước thuốc để khí huyết lưu thông, nhanh chóng bình phục sức khỏe. Đặc biệt phải chú ý, bếp lửa của sản phụ không được ai giẫm lên, nhất là khi đang sắc thuốc.
Khi đứa con ra đời được đón mừng bằng cuộc ở cữ (con trai 5 ngày, con gái 3 ngày) cạnh bếp lửa bên trong. Suốt thời gian ở cữ người ta làm rất nhiều cơm lam mừng bé. Một tục lệ rất đẹp là các gia đình trong bản ai cũng mang cho mấy bát gạo nếp chọn làm cơm lam và ai đã đến cũng đều ăn ít cơm lam mừng bé. Điều này mang ý nghĩa: bé mới là chủ những ống cơm lam, có được nhiều người ăn, sau này bé lớn lên mới có lòng rộng mở, bao dung, yêu quý mọi người. Các cô gái trong bản đến chơi vui giúp đun củi lửa và đốt những ống cơm lam ăn uống vui vẻ. Người ta mang ra đặt đầu nằm cữ bên bếp lửa của mẹ con những hòm, bem trong đó đựng các loại thổ cẩm, vải, tơ, khăn piêu, mặt gối... và các quyển sách hát. Đêm nào người bố cũng đem sách ra bên bếp ngâm ngợi tận khuya. Người Thái quan niệm làm như thế, bé lớn lên mới siêng làm, giỏi các nghề canh cửi, thêu thùa và khôn ngoan, giỏi hát... 
Đặc biệt, khi làm cơm, phải chọn những ống đều đặn, tiện hai đầu thật bằng, bởi có làm những ống cơm lam xinh xắn thì bé lớn lên mới xinh đẹp. Các vỏ ống cơm lam được giữ lại tất cả. Sau khi mãn cữ, người bố xếp các vỏ ống cơm lam cùng đít miệng, bó chặt, mang đi mắc trên chạc cây nào đó cạnh đường, quay miệng ra phía ngoài bản. Nhiều người qua đường nhìn thấy vỏ ống cơm lam thì bé lớn lên đời mới sáng sủa, được thiên hạ yêu mến. Miệng ống quay ra ngoài để tiếng nói của bé được vang xa, được nhiều người gần xa ưa thích lắng nghe.
Ăn uống của sản phụ: Trong hai ngày đầu, sản phụ chủ yếu ăn cơm lam chấm muối và uống nước thuốc. Đến ngày thứ ba sản phụ mới được ăn thêm xôi nếp (khẩu nửng). Thức ăn của sản phụ chủ yếu là rau rừng, vả, sung, rau ngót, rau mần trầu, và tất cả các loại rau có hoa màu trắng để giải nhiệt, không hại bụng (pay tọng), lại cho nhiều sữa. Ăn cá thì chủ yếu ăn cá trôi, pa mọm, pa khính... riêng cá mè, cá chép không được ăn vì có chất tanh. Ăn thịt lợn thì chỉ ăn thịt nạc của lợn đực (đã thiến). Tất cả các loại thịt và cá cho sản phụ ăn đều được xát ít muối, sấy khô, khi ăn đem ra rửa rồi cho vào gắp tre nướng kĩ (pỉng sang) cho thơm, hay là hấp trên chõ xôi sau đó cho vào gắp tre nướng cho thơm. Ăn gà thì phải bỏ hết ruột, đập củ gừng và một nhánh nghệ (hản pháy), thêm một chén rượu, cho ít muối rồi hầm nhừ, khi ăn bỏ da, ăn nóng.
Tóm lại, thức ăn, đồ uống có liên quan trực tiếp đến sữa mẹ và ảnh hưởng tốt hay xấu đến đứa con nên người mẹ ăn, uống hết sức cẩn thận.
Những kiêng kỵ thời kì sản phụ ở cữ: Tháng sản phụ ở cữ còn gọi là bươn phày (tháng lửa) hay cằm bươn (tháng kiêng). Tháng này sản phụ chưa được sạch sẽ, người còn yếu (khình ón) nên phải kiêng một số thứ như: không được đi lại phía gian có bàn thờ (cọ lọ hóng(3)), chỉ được đi lại và sinh hoạt từ phạm vi ở cữ hất về phía chán (gian ngoài phơi phóng); không đến nhà người khác, kể cả nhà bố mẹ đẻ, anh chị em ruột thịt; không được sinh hoạt chung với gia đình: ăn uống riêng, dùng ghế riêng, chậu giặt riêng, sào phơi tả lót, váy áo riêng. Đặc biệt ghế ngồi của sản phụ khi hết ở cữ không ngồi nữa thì phải cất hoặc vứt đi, sợ khách, nhất là khách đàn ông ngồi phải (vì đây là ghế bẩn).
Mọi người phải kiêng không được đi qua nơi sản phụ ngồi sưởi. Nếu ai không biết mà phạm phải điều kiêng kỵ này sẽ làm cho đứa trẻ khóc hờn không chịu bú. Phụ nữ mang thai và ở cữ không được với cao, sợ tụt dây tia sữa (lụt xai nồm) ảnh hưởng đến thai nhi và sức khỏe người mẹ. Sản phụ đang ở cữ đang ngồi nếu muốn đứng lên phải từ từ, nhẹ nhàng, kể cả đi lại quanh chỗ ở cữ cũng thế, vì cơ thể người phụ nữ lúc mới đẻ còn rất yếu, không cẩn thận sẽ bị sa dạ con. Chưa đầy tháng sản phụ tuyệt đối không được sàng, sảy gạo, thóc vì khi làm những việc này toàn thân phải vận động khiến người phụ nữ mới đẻ dễ bị băng huyết.
Một số loại lá, cây thuốc như: bậu chạp; lá sả thơm; lá cản đíp cản đók; lá dọng dạnh, lá lẹ; lá bók chúc; lá mớt é; lá en chứa, cây xét lấu; lá cây chó đẻ... được dùng để nấu nước tắm cho sản phụ cũng như bé mới sinh giúp cho cơ thể sản phụ mau chóng được hồi phục khỏe lại, cơ thể cứng cáp (kinh khanh), giúp cho tinh thần được sảng khoái, vết thương mau lành, đồng thời chữa trị và chống lại được rất nhiều loại bệnh ngoài da thường gặp.
Các loại cây như: cây phang; cây sản chứa; chứa núm tổ (dây sữa đặc); hứa xảy tăn; cây lưu sại; cây lấu phạ; dây náng đết; cây phả nọi; cây ta xâng, rễ cỏ mần trầu; cây mía đen; cây vông (lá xanh)... được người Thái kết hợp với một số vị thuốc sắc thành nước uống cho sản phụ, có tác dụng giúp cơ thể mau chóng bình phục, lại sức nhanh, da dẻ hồng hào, đồng thời còn giúp sản phụ lợi sữa, có nhiều sữa hơn và chất lượng sữa thơm ngon hơn.
Tuy nhiên, theo người Thái, vị thuốc quý và bổ nhất sử dụng cho sản phụ chính là dạ dày nhím. Vị thuốc dạ dày nhím bất cứ sản phụ nào cũng nên dùng bởi nó có thể phòng tránh được nhiều bệnh đường ruột cho đứa bé và tốt cho sức khỏe của người mẹ sau khi sinh. Họ giải thích rằng loài nhím sống trong rừng ăn những thức ăn là các loại củ, quả và các loại rễ cây rừng nên dạ dày tích tụ rất nhiều vị thuốc nam tổng hợp có giá trị cao. Nó giúp cho cơ thể phụ nữ mau chóng khỏe mạnh và ăn khỏe, ngon miệng lại làm tăng chất dinh dưỡng trong sữa. Sản phụ sinh con lần đầu càng nên uống vị thuốc này để cơ thể mau chóng bình phục. 
Chăm sóc trẻ sơ sinh: Ngay khi đứa bé lọt lòng (tộc phạk) bà đỡ phải nhanh chóng dùng ngón tay “móc miệng” - cho tay vào lấy chất nhờn trong miệng của bé ra. Sau đó lại nhanh tay cắt rốn cho bé, lấy chỉ buộc thật chặt rốn chỗ cách bụng trẻ hai đốt ngón tay, rồi lấy thanh cật nứa đã được vót sắc hơ lửa hay nhúng vào nước sôi để cắt rốn (họ cho rằng nứa không gây nhiễm trùng, cho đến mãi sau này họ mới biết dùng kéo cắt rốn.)
Sau khi cắt rốn, bà đỡ lấy nước ấm lau cho trẻ sạch sẽ rồi mới đưa cho bà đón trẻ (me hặp). Bà đón quấn tã cẩn thận cho bé rồi đặt bé nằm vào một cái mẹt đặt vào trong nhà, cạnh cửa phía chán. (Việc đặt cho trẻ nằm vào mẹt có ý nghĩa mong cho đứa trẻ sẽ mau khôn lớn, sống lâu, thông minh và thọ đến lúc lưng cong “cái mẹt” như các cụ ông, cụ bà). Để đầu đứa bé nằm quay ra hướng ngoài cửa, chân quay vào trong nhà. Người Thái ở đây quan niệm, nhau trong bụng mẹ chưa ra thì việc xấu vẫn có thể xảy ra đe dọa đến tính mạng sản phụ. Đặt bé nằm như vậy có nghĩa là bé lọt lòng chân vẫn quay về hướng mẹ để đợi nhau thai trong bụng mẹ ra hết. Mặt khác còn là để ma nhà nhận biết và cầu mong tổ tiên phù hộ cho người mẹ thoát khỏi tai ương. Sau khi nhau thai đã ra hết bà đỡ gọi bà đón xoay cái mẹt để đầu đứa bé quay vào trong nhà, chân quay ra cửa với ý báo cho ma nhà, tổ tiên biết là sản phụ đã sinh nở “mẹ tròn con vuông”, mọi việc tốt đẹp.
Thường trong hai ngày đầu người mẹ chưa có sữa nên phải mượn vú nuôi cho trẻ bú. Người vú nuôi là chị em trong nhà và cũng có thể là người trong bản đang có con nhỏ, sữa không tanh, con cái cứng cáp khỏe mạnh. 
Khi đưa đứa trẻ vào đặt nằm cạnh mẹ bên bếp lửa, bà nội sẽ phải đọc to bài bùa mang tính chất giáo huấn, dạy bảo con cái ngay từ thưở lọt lòng những điều hay lẽ phải và đạo đức làm người để sau này lớn lên trở thành người có ích cho gia đình, làng bản và xã hội.
Đối với trẻ trai thì bà nội lấy chân chài và chuôi kiếm đi đến đầu giường bé ngủ; tay cầm chuôi kiếm, chân bà đạp mạnh xuống sàn và đọc to bài bùa ý dạy cháu phải biết lo việc lớn, làm những việc của đàn ông và làm sao cho được bằng anh bằng em, đại ý là: Dậy thật sớm và phải chăm chỉ/ Dậy để làm tạo làm quan/ Đi gần được bạc trắng, đi xa được bạc thẻ/ Đi loanh quanh được bạc lạng/ Muốn biết bản mường làm gì phải lo học phai hiên/ Lo nhìn cho bằng anh bằng em.
Còn đối với trẻ gái thì bà đọc một bài bùa ý dạy cháu gái phải biết làm và lo lắng những công việc của người phụ nữ, muốn có phải làm và muốn có thì phải siêng năng, cần cù, chăm lo công việc gia đình, đại ý là: Dậy sớm chăm chỉ mà đi rẫy đi ruộng trước cô, trước cha và mẹ/ Đi rẫy mà lấy củi, đi ruộng mà lấy thóc, lấy ngô/ Việc ruộng rẫy đừng lười nhác/ Việc khâu vá không ai làm thay được/ Muốn được phải làm/ Muốn có phải siêng năng.
Cách gội đầu cho trẻ sơ sinh: Đối với trẻ sơ sinh, người Thái luôn sử dụng các loại lá thuốc Nam có sẵn trong rừng đun sôi để nguội để gội đầu cho trẻ. Trong lúc tắm gội cho con, bà mẹ bao giờ cũng đọc thành bài có nội dung gạt bỏ những xấu xa bẩn thỉu, hôi tanh cho con mau lớn khôn: Gội nước gạo gạt bỏ điều xấu/ Nước hương để xóa bỏ đi những hôi tanh dính ở trên đầu/ Gạt bỏ những điều xấu xa, bẩn thỉu/ Để con mau lớn, mau khôn.
Tắm gội xong, mẹ lấy tã lót quấn vào cho bé rồi lấy lược chải đầu, vừa chải lại vừa hát cho con nghe những bài hát ru quen thuộc của dân tộc mình.
Đánh dấu vào trán trẻ: Lấy miếng trầu cau giã thật kĩ rồi vắt lấy nước (có màu đỏ) vào một cái đĩa; lấy lạt nhỏ dài bằng ba ngón tay, bẻ gấp chiếc lạt đó thành hai khúc bằng nhau, nhúng vào nước trầu cau rồi đánh dấu vào trán trẻ hai nét tạo thành hình chữ V. Người Thái quan niệm rằng việc đánh dấu đỏ vào trán đứa trẻ thể hiện cái phúc của hai vợ chồng, đồng thời để ghi nhớ cái ngày sinh con vất vả và một tháng ở cữ bên bếp lửa. Ngoài ra đánh dấu vào trán trẻ để mọi người khi nhìn vào trán trẻ như luôn thấy ánh lên ánh hào quang, sau này khi lớn lên sẽ có nhiều người để ý đến.
Tục cắm ta leo: Từ lúc trong gia đình có người sinh nở, người Thái cắm ta leo. Ta leo do ông nội, ông ngoại đứa bé làm. Có các loại ta leo như sau:
- Ta leo một lớp cài thêm lá từ bi người Thái buộc vào cầu thang phía chán nhằm xua đuổi, ngăn chặn không cho ma quỷ và vía khách lạ vào quấy rối và làm hại đến sản phụ và đứa trẻ.
- Ta leo gồm chín lớp được đan trùng lên nhau, cài thêm lá từ bi buộc trên phía chán để ma không dám vào nhà.
- Ta leo chín lớp cài lá từ bi buộc thêm tờ giấy, cái bút, vải vụn xanh đỏ, kim, chỉ thành một chùm rồi buộc vào chỗ đầu dây thòng lọng phía trên, chỗ sản phụ ngồi hơ lửa. Ta leo dùng để chặn ma quỷ, còn sách, bút, kim, chỉ, vải vụn xanh đỏ để cầu mong cho con cái thông minh, giỏi giang mọi công việc: Là con gái phải thông thạo dệt cửi thêu thùa/ Là con trai viết chữ vào bàn tay nắm chặt. 
 Ngay từ ngày đầu sinh ra đứa trẻ đã được bố viết vào lòng bàn tay những nét chữ với ý nghĩa mong con lớn lên được bản mường chú ý, học hành chăm chỉ, thông minh, thành đạt. Nội dung bài bùa cắm ta leo đại ý là: Cắm ta leo, nếu ma muốn qua thành hố hay định nhảy xuống vực, hoặc thò chân xuống mắc ta đâm, ta leo chọc, lời ta chặn, mồm ta thiêng.
Lễ rời bếp lửa: Sản phụ sau 5, 6 ngày ăn, nằm, sinh hoạt cạnh bếp lửa nay được rời bếp lửa. Người Thái quan niệm chỗ nào cũng có thần linh cai quản và phù trợ cho mình, do vậy trước khi rời bếp lửa, sản phụ làm mâm lễ nhỏ để tạ ơn.
Lễ nơi đẻ: Lấy đĩa rau đồ, ống cơm lam, ống nước thuốc cho vào một cái mâm nhỏ đến nơi đẻ làm lễ rồi đọc bài xướng lễ (trích): Hôm nay có nước thuốc, cơm lam đến biếu ông, biếu bà/ Ông bà ăn xong hãy bay lên tận trời cao, bay đến mây mù/ Hãy phù hộ cho bé nhỏ chóng lớn khôn thành quả không héo, thành cây thành bụi không lụi/ Cho thành người mường bản cùng biết/ Để có tiếng mường bản cùng hay.
Lễ nơi bếp sản phụ: Lấy một đĩa rau, một ống nước thuốc, một ống cơm lam cho vào mâm đặt xuống góc bếp sản phụ làm lễ rồi đọc bài xướng lễ, đại ý là: Bây giờ ta không kiêng được nữa/ Bốn năm ngày ta sẽ lên ngủ trên gác trên sạp/ Bây giờ ta có mâm lễ nhỏ đến biếu/ Ăn xong hãy phù hộ cho bé luôn ngủ ngon nơi gối/ Luôn ngủ say nơi đệm/ Đừng phật ý giận hờn. 
Cúng vía võng, vía địu: Ngay sau khi sản phụ sinh nở được mẹ tròn con vuông, ông nội, ông ngoại chuẩn bị võng tre, còn địu đã được chuẩn bị từ trước để đón bé nằm “võng ru địu cõng”. Song, trước khi cho bé tiếp xúc với võng, với địu (nơi mới lạ chưa quen), người Thái thường làm thủ tục cúng vía võng, vía địu cầu mong sự tốt lành để bé khỏe, bé ngoan, không khóc, không hờn, không giật mình... Cách thức làm như sau: Cho cái địu và bé nằm vào trong võng. Lấy nắm xôi, một quả trứng gà luộc bóc vỏ, một con cá nướng, tất cả cho vào một cái mâm con đưa đến cạnh võng làm lễ. Bài ca xướng lễ có nội dung như sau: Bé nhỏ mới sinh/ Trai nhỏ mới lọt/ Bé vừa được ngày cữ qua đi đưa bé vào nằm võng/ Dây võng chắc đu đưa cho bé ngủ đừng để bé rơi rừng tranh rừng già/ Để người mường bản cùng biết cùng hay. Từ nay trở đi ngoài nằm cạnh mẹ, bé còn được nằm trong nôi ru ngủ. Câu hát, câu ru thiết tha, tình cảm lắng đọng vào giấc ngủ cho đến khi đứa trẻ 2 - 3 tuổi. Lớn lên mỗi khi xa nhà, nhớ đến mẹ, nhớ đến quê hương là nhớ đến tiếng ru.
Cúng ma nhà: Đây là lễ tạ lỗi với tổ tiên (phi hườn) vì thời gian qua trong gia đình đã xảy ra những chuyện bất thường làm ồn ào ảnh hưởng đến tổ tiên. Lễ này làm vừa phải và đơn giản, lễ vật gồm: một con lợn mổ luộc, một chai rượu, đĩa trầu cau, hai gói xôi và ít hoa quả dâng lên nơi thờ tổ tiên (cọ lọ hóng). 
Lễ tụ hồn cho sản phụ: Đây là lễ mừng cho sản phụ thoát khỏi giai đoạn hiểm nghèo. Ngày xưa chưa có y, bác sĩ nên người phụ nữ sinh đẻ được ví như đi đánh trận, việc sống chết phó mặc cho số phận. Chỗ dựa đáng tin cậy nhất để họ vượt qua giai đoạn này chính là các ông mo, bà mo. Vì vậy khi đã mẹ tròn con vuông khỏe mạnh, vững vàng, thầy mo sẽ gọi hồn lạc bốn phương trở về. Để mừng các hồn của sản phụ đã quay trở về, gia đình làm lễ “nhập hồn, gom hồn” cho sản phụ và cầu mong cho họ luôn được khỏe mạnh, làm ăn gặp nhiều may mắn. Vật làm lễ bao gồm: một con lợn, luộc chín vớt ra cắt lấy mỗi bên hai dẻ xương sườn, 1/3 ruột non làm sạch rồi kẹp tre nướng cho thơm. Sắp mâm lễ: Lợn, sườn nướng, ruột non nướng, hai bát canh luộc thịt, hai ép khẩu (ép đựng xôi), một chai rượu... sắp xong dâng mâm lễ lên đặt ở giường ngủ của sản phụ. Sản phụ ngồi phía đầu mâm, thầy mo ngồi phía cuối mâm đối diện sản phụ, người trong gia đình ngồi cùng vào mâm để làm lễ.
Cúng vía cho trẻ nhỏ: Lễ vật để cúng vía cho trẻ nhỏ rất đơn giản, chỉ gồm: một quả trứng gà luộc chín bóc vỏ, một gói xôi, một con cá nướng. Tất cả cho vào một cái mâm nhỏ đặt xuống cạnh đứa trẻ cho thầy mo cúng.
Lễ đặt tên: Tên của đứa trẻ thường do bố mẹ, ông bà, cô bác quyết định và được đặt khi vừa sinh ra. Người Thái thường dùng các tên: Éng, Péng, Xêm, Khụt, Xeng... để đặt cho con. Những đứa trẻ khó nuôi thì thường được đặt tên thật xấu xí như: Khỏ, Khôm, Hít, Hây, Pê, Pa... Tên này gọi là chư nọi (tên nhỏ) dùng để gọi hằng ngày, cũng như dùng trong các văn bản giấy tờ.
Ngoài ra, do ngày xưa người Thái quan niệm mỗi một con người đều do các mé Báu mé Nàng nặn ra và ban xuống, hơn nữa đứa trẻ tuy là con mình nhưng lại là cháu của các cụ, kị, tổ tiên. Để tỏ lòng biết ơn, kính trọng bề trên, cầu mong đứa trẻ lớn khôn khỏe mạnh đến đầu bạc răng long phải mời mo đến làm lễ xin mé Báu mé Nàng, tổ tiên và các then trên trời ban cho đứa trẻ cái tên và tên đó gọi là chư Một. Tên này dùng khi cúng, cầu hôn, cầu phúc, cầu sức khỏe, cầu cho con cái thành đạt hạnh phúc.
Khi có họ tên đứa trẻ mới có đủ tư cách để xưng danh với tổ tiên, thiên hạ. Cũng từ đấy vía đứa trẻ mới được ăn mâm lễ gà chứ không phải trứng luộc như trước.
Để mừng đứa cháu ngoại ra đời, nhân dịp lễ đặt tên ông bà ngoại cho cháu vòng bạc, địu, vải trắng (người Thái tự dệt để làm tã cho trẻ). Thầy mo, ông bà nội ngoại, anh em, cô bác ruột lấy chỉ buộc cổ tay cho bé, buộc linh hồn bé luôn gắn với thể xác và tên tuổi của mình. Lễ vật đặt tên bao gồm: Các con vật làm lễ: Vài con dế mèn, châu chấu sống thả vào chậu nước lã trong vắt. Một con lợn; một con gà mái và một con gà trống cho vào lồng, gọi là tìm hồn. Năm con gà để thịt.    
* Các phong tục liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dạy con
Người Thái quan niệm gia đình như một cái cây, cha mẹ là phần gốc, con cái là phần ngọn. Gốc có vững, ngọn có sum suê thì cây mới tốt. Thành ngữ Thái có câu: “Đáy kháu hốm cọ cán công vớ puồng” (được vào bóng cây cọ cuống cong lá nhiều - ý nói là được nhờ cậy gia đình có bề thế vững vàng).
Xã hội bản mường Thái hình thành từ rất xa xưa và rất coi trọng giáo dục tự giác. Các hình thức dạy dỗ con cái phổ biến nhất là thuyết lý, giảng giải, tục ngữ Thái có câu: Tạy lúc áu tá, tạy má áu khọn (Dạy con nhìn bằng mắt, dạy chó dùng roi vọt) và đặc biệt là hướng dẫn, sử dụng trò chơi, hát đồng dao, lời ru, tục ngữ, thành ngữ, ca dao, câu đố, truyện kể dân gian, truyện thơ hoặc thông qua sinh hoạt tín ngưỡng, lễ tục như làm vía, thờ cúng ma nhà, thờ thần, tang lễ, kin chiêng, phấn chá, cưới xin... Các hình thức trên được các thế hệ cha mẹ vận dụng phù hợp với từng giai đoạn phát triển theo lứa tuổi và giới tính của trẻ. 
- Chăm sóc dạy bảo con trong giai đoạn trẻ thơ: 
Tiếng Thái gọi giai đoạn này là ”mạnh páy ín bán” nghĩa là thích đi chơi với bạn trong bản, khoảng từ 4 - 5 đến 7 - 8 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu thoát ra ngoài bóng che của người thân và mái nhà quen thuộc để đến với thế giới xung quanh, gồm cả thiên nhiên và con người. Mọi thứ đều mới lạ với trẻ thơ và để lại dấu ấn ban đầu rất khó phai mờ. Người Thái chú ý hình thành cho con tình bạn trong sáng, yêu điều thiện, ghét điều ác, quý mến người thân, cảnh vật xung quanh mình, tạo ra trí tưởng tượng về thế giới bao la, hình thành các tố chất: dẻo, khéo, phát triển trí tưởng tượng, trí thông minh và ngôn ngữ. Các hình thức dạy dỗ chủ yếu thời kỳ này là kết bạn, trò chơi và kể chuyện cổ tích.
Điều đầu tiên cha mẹ quan tâm là tạo điều kiện để con tiếp xúc với bạn bè cùng lứa. Lúc nhỏ chưa cần phân biệt giới tính. Trong số đó, trẻ sẽ tự nhiên kết thành đôi bạn thân. Người lớn cố ý tạo ra trong con mắt trẻ thơ cái gì cũng có bạn, có đôi. Trong những đêm mùa hè trong trẻo, trên chàn (sàn phơi), đầu sàn nhà, ngồi ngắm trăng sao, ông bà, cha mẹ dạy con tập nói bi bô:
Ống áng, ống áng ơi!
Ống áng ời bướn đáo
Xóng mé sáo tắm kháu,
Xóng cha tháu lông lang cứa mú,
Xóng mé ngu phắn chước,
Xóng mé ngước khò lèn
Tặc tén hụ pau pi,
Chi hó hụ phứa nà,
Mènh lá hụ phặc kdắng páy háy,
Cay cúm hụ lệt phặc,
Nộc vặc hụ úm lúc úm lán mưa non,
Cay còn xay ná tang,
Mé bang chặp húa đáy,
Mènh dáy chặp xói táng,
Ống áng ời bướn đáo.
Dịch:
Ông trăng, ông trăng ơi!
Ông trăng ơi ông sao,
Hai cô gái xuống sân giã gạo,
Hai bà già xuống sàn cho lợn ăn,
Hai con rắn bện thừng,
Hai con thuồng luồng cổ vằn,
Châu chấu biết thổi kèn,
Dế mèn biết bừa ruộng,
Cà cuống biết đeo giỏ đi rẫy,
Gà cồ biết hái rau,
Chim cuốc biết bế con, bế cháu về ngủ,
Gà tơ đẻ trước nhà,
Cầy bay đậu cầu thang,
Tò vò dậu tua cây táng sao,
Ông trăng, ông trăng ơi!( ).
Trong bài tập đếm trên đây, tất cả mọi vật nói đến đều có hai, nghĩa là có đôi, có bạn. Ai cũng làm việc. Bài ca có ý dạy con phải siêng năng, cần cù lao động.
Các trò chơi của trẻ nhỏ thường nhẹ nhàng, diễn ra trên sàn nhà, sử dụng chân tay làm đạo cụ, kèm theo lời hát hoặc lời nói vần, thích nghe, dễ nhớ, như: bẻ ngón tay làm củ gừng, củ riềng (póm khính, póm kha), bấu mu bàn tay chồng lên nhau (dặc dú dặc dày). Lớn thêm, trẻ có thể sử dụng đến các vật xung quanh làm dụng cụ, như: trò cưỡi ngựa thì dùng tàu cau, trò dệt vải dùng lá chuối, trò săn bắn dùng tàu chuối, trò đánh chắt dùng que tre,... Các trò chơi ở lứa tuổi nhỏ chủ yếu mang tính mô phỏng, dựa vào tưởng tượng hơn là động tác, chưa thể gây chấn thương, nguy hiểm. Trẻ chơi cũng vô tư, lành tính, chưa xảy ra xung đột bằng vũ lực. Một số trò chơi mang tính mô phỏng công việc của người lớn như: địu con, ru em, dắt trâu, trang điểm cô dâu... Trong truyện thơ Thái Tiễn dặn người yêu có những câu nhắc tới kỷ niệm thời thơ ấu: 
Nhớ khi mải chơi giữa bản quên ăn
Ta lấy quả bưởi làm trâu, lấy dưa gang làm em bé
Lấy lạt tre làm vòng bạc, vòng vàng...
Lớn thêm, cha mẹ buộc dây đu dưới gầm sàn, anh chị dạy cho chơi đu, chơi trò rồng rắn. Trong các trò chơi, người lớn dạy cho trẻ em vừa vận động cơ thể, vừa hát đồng dao, có tác dụng làm cho người chơi say sưa, vừa rèn luyện thân thể vừa rèn luyện ngôn ngữ. Ví dụ, trò chơi đu dây, trẻ ngồi lên dây đu (làm bằng vỏ cây hu, cây sa), giơ thẳng chân về phía trước, vừa nhún vừa hát: Đu bồng bềnh, dây cây sa, dóng cây nứa, vợ nhà dưới, chị nhà trên, quả cà đỏ, quả bưởi chua, bánh chưng ngọt, nếp cái thơm, lật đật lên nhà ông, đeo túi lên nhà quan, nhà quan có ang vàng ang bạc ngâm gạo, nhà tớ chẳng có gì để ăn... 
Trò chơi thường kèm theo lời nói, lời hát. Chẳng hạn, khi chọn người đuổi bắt, một bạn đứng giữa vòng tròn ngồi vây xung quanh, lần lượt chỉ vào từng người, đếm theo lời xướng: um pút, ùm pong, manh dong, xiếm cá, há phấn, há lum, ùm bạy, khày óc, xóc kín, mìn thung, mìn thia, lia páp, xáp lức. Người ứng với lời xướng cuối cùng được chọn đi lùa bắt người khác. Làm trò rồng rắn đã sử dụng đến lời đối thoại:
Mưng xớ cân đờ? - Mé ngu cán póng!
Mưng dú tí đớ? - Dú tớ khăn na!
Mưng ma ệt lơ? - Ma kín khuyết tạng na!
Mưng ma ệt lơ? - Ma kín pá long xón!
 - Ma kín xáy đinh nọi!
(Mày là ai? - Là rắn sọc dưa!/ Mày từ đâu đến? - Từ dưới chân bờ ruộng!/ - Mày đến đây làm chi? - Đến ăn nhái vạt thoát nước bờ ruộng!/ - Mày đến đây làm chi? - Đến ăn cá mắc đơm! Đến ăn ruột trẻ con!).
Dạy nói chính xác, nói nhanh, người ta cũng có nhiều cách. Trong đó có một số câu đố nói như kiểu “Nồi đồng nấu ốc, nồi đất nấu ếch” của người Kinh. Ví dụ: “Nắng tăng xúng tăm chắng, nắng tăng tăm, tăm tắng” (Ngồi ghế cao giã cánh kiến, ngồi ghế thấp giã nhựa bẫy chim).
Giai đoạn này trẻ em còn rất vô tư, chưa biết xấu hổ và thích nói, thích hát, cho nên các bà, các chị thường tập cho con em các bài ru em, hát khặp, từ những bài ngộ nghĩnh dần dần đến các làn điệu gần với người lớn. Luyện giọng ở giai đoạn này rất quan trọng, tạo tiền đề phát triển năng khiếu sau này.
Câu đố cũng là một loại trò chơi trí tuệ được người Thái sử dụng dạy trẻ con theo từng lứa tuổi. Nội dung chủ yếu là đố về các sự vật, hiện tượng xung quanh cuộc sống hàng ngày. Nghệ thuật chủ yếu là miêu tả đặc điểm bằng ngôn ngữ hình ảnh, câu đố có vần, dùng lối nói lái, nói lật ngược, dùng toán số, đòi hỏi người trả lời phải có vốn hiểu biết và suy luận thông minh. Trong câu đố người Thái, có một số bài ghép nhiều câu vừa hỏi, vừa đáp lại với nhau thành một bài văn vần rất liền mạch, rất hay. Ví dụ, đố và giải về các loại dây, có đoạn:
Xái tắc mưa lăng, xái xang
Xái pín ngoạng ngoạng mưa ná, xái con
Xái chon đống chon đón, xái hẹo
Xái xót xéo lông nặm, xái vệt.
Dịch:
Dây giật về sau, dây cù
Dây quay tít về trước, dây còn
Dây luồn rừng luồn núi, dây bẫy
Dây mỏng mảnh xuống nước, dây câu...
Bài đố về các loại quả (mác):
Mác sục lướng mác cuối
Mác kháu huối mác phày
Mác pến khày mác cọ
Mác kho lo, khe le mác khám
Mác pến nám mác nghiều
Mác pái thiếu mác lót
Mác nhót nhọi mác quýn
Mác pến ín mác sán
Mác quá bán mác phương.
Dịch:    
Quả vàng ươm quả chuối
Quả theo suối dâu da
Quả phấn xanh quả cọ
Quả thắt đoạn quả me
Quả có lông xù xì chôm chôm
Quả nhọn hai đầu quả nhót
Quả chót vót bồ quân
Quả lắm xơ quả xổ
Quả quanh làng quả khế.
Kể chuyện ngày xưa vừa là một hình thức sinh hoạt văn nghệ trên nhà sàn trong những đêm con cháu vui vầy xúm quanh, vừa là một hình thức giáo dục, giáo dưỡng bổ ích. Trong kho tàng văn học dân gian, người Thái có đủ các loại chuyện kể: truyền thuyết, thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, giai thoại, dã sử. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu thế giới tự nhiên, ông, bà thường kể về quá trình hình thành trời đất, muôn vật trần gian, từ thời sinh trời đẻ đất rồi tách ra thành tầng trời, tầng đất, tầng người lùn dưới mặt đất, tầng dưới nước đến các sự cố về nạn hồng thủy, hạn hán, loạn thú; các nhân vật chinh phục trời đất như Then Thúm, Then Thóng, Ý Cặp - Bá Ke,... Các sự tích về núi non, khe suối, ao hồ, mó nước... gắn với các câu chuyện về người khổng lồ: Ải Lậc Cậc, Lung Quan Khà, Ải Pu Té. 
Hầu như tất cả các hiện tượng thiên nhiên xung quanh đều được người Thái giải thích bằng những câu chuyện sinh động. Chẳng hạn, núi đá mồ côi mọc giữa cánh đồng là do Lung Quan Khà hay Ải Pu Té ném trâu ăn lúa mà thành... Sự tích các con vật hay gắn với các câu chuyện xúc động hoặc dí dỏm phản ánh đời sống, sinh hoạt của con người ở nơi rừng núi, như chuyện: bìm bịp ăn phân trâu, chuột ăn lúa, ve không có ruột, con khảm khác kêu cả đêm, con ốc cốn pún cụt đuôi... Các câu chuyện này chứa đựng nội dung khuyên bảo những điều về đạo lý, đôi khi ngầm phê phán, khơi gợi trí thông minh. Các câu chuyện về sinh hoạt xã hội có nhiều lĩnh vực về quan hệ gia đình. Chuyện về làng nước, vua quan, tạo mường lại thiên về chuyện cười như: Ao Thoi (Chú Cuội), Púa Chu Chổm (Vua Chu Chổm), Tạo mường páy chợ (Tạo mường đi chợ)...
Tóm lại ở giai đoạn trẻ thơ, các bậc cha mẹ sử dụng các hình thức dạy dỗ nhẹ nhàng, vui vẻ, chơi để học. Đồng thời người lớn luôn luôn công tâm, công bằng, yêu quý con cháu người khác như con cháu mình.
- Chăm sóc, nuôi dạy con giai đoạn chăn trâu, câu cá
Giai đoạn này tương ứng với tuổi thiếu niên (từ 8 - 9 đến 12 - 13 tuổi). Người Thái quan niệm đây là giai đoạn trẻ con đang dần trở thành người lớn. Trong vòng 1 giáp (tròn 12 năm) trở lại, trẻ em chưa đủ tư cách của một con người hoàn chỉnh. Nếu không may bị chết, trẻ em không được bỏ vào quan tài và chôn ở nghĩa địa chung của bản, không được làm đám tang, mà chỉ được bó chiếu hoặc vỏ cây, chôn ở nơi dành cho trẻ con, gọi là “héo mác nánh”, không làm nhà mồ và không chôn đá xung quanh. 
Từ 13 tuổi trở lên, mỗi cá thể người mới có vai trò xã hội, có thể tham gia một số công việc chung của bản xóm. Giai đoạn này, cơ thể đang phát triển mạnh, nhất là về chiều cao, rất hiếu động. Đầu óc cũng đã phát triển gần như người lớn, khả năng suy nghĩ, ghi nhớ và diễn đạt không kém gì người lớn. Phạm vi hoạt động đã rộng hơn trước, vươn ra khỏi bản, đến với thiên nhiên và tiếp xúc với người hàng mường. Thời gian cha mẹ, gia đình quán xuyến ngày càng ít hơn, hoạt động cùng bạn bè ngày càng nhiều hơn. Trẻ có nhu cầu nhiều về vận động cơ thể và ham hiểu biết, khám phá cái mới. Để đạt được mục đích dạy bảo cho con những điều hay, lẽ phải, biết lễ phép, tôn trọng mọi người, nhất là người trên, biết làm những công việc thông thường như mọi người trong làng bản, biết học chữ hoặc một nghề đặc biệt nào đó, đồng thời kiềm chế các hành vi nghịch ngợm gây hại cho người khác và bản thân, tránh gây xích mích, đánh chửi bạn bè, bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, các bậc cha mẹ phải tìm cách vừa đáp ứng nhu cầu vận động của trẻ, vừa đạt được mong muốn của người lớn. Biện pháp hướng dẫn, đặt ra yêu cầu phải đi kèm với việc tăng cường kiểm tra, phân tích đúng - sai, khen, chê đúng mức. Biện pháp xử lý lỗi lầm cũng nghiêm khắc hơn. Trong trường hợp cần thiết cũng phải dùng roi vọt. Việc tỏ thái độ khen chê cũng cần cân nhắc. Người Thái nói: Hặc tang lắng, chăng tang ná, nghĩa là: Thương để sau lưng, không ưng nói trước mặt. Người Kinh nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, “Làm bạn phải nên chọn người”. Người Thái rất quan tâm đến việc kết bạn của con trong lứa tuổi này. Họ cũng rút ra kết luận: Ệt cú nóm cân đí mằn pín đí/ Ệt cú nóm phí mằn pến phí (Làm bạn với người tốt nên tốt, làm bạn với ma hóa ma), Huốm hươn nóm phú chạ măn chạ/ Huốm tá nóm phú lặc măn lặc (Chung nhà với người dốt thì dốt, chung bến nước với người khôn thì khôn), Huốm hươn nóm phú chạn mằn chạn/ Huốm bán đóm phú măn mằn măn (Chung nhà với người lười thành lười, chung bản với người siêng thành siêng).
Ở lứa tuổi này, ngoài thời gian đi làm các công việc vừa sức như: chăn trâu, bắt cá, trông em, canh ruộng, canh rẫy... và giờ ăn, giờ ngủ, trẻ em thường ra sân chung của bản gọi là khuống hoặc đến nhà sàn của bạn để cùng chơi. Buổi tối, mỗi nhóm bạn tập trung tại một gian nhà sàn quen thuộc. Chủ nhà thường rất vui tính, rộng rãi với mọi người, có năng khiếu kể chuyện, nhớ nhiều thơ văn, ưa thích văn nghệ. Những người đó có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm và hình thành nhân cách của trẻ. Vì vậy cha mẹ không cấm đoán con cái đi chơi, nhưng phải có địa chỉ cụ thể và hướng cho con chọn nhà để chơi. 
Người lớn vẫn tiếp tục sử dụng các hình thức văn nghệ như: kể chuyện, câu đố, hát đồng dao để giáo dục con cái, nhưng ở mức độ cao hơn, khó hơn và nội dung phong phú hơn. Ví dụ, trước đó người ta sử dụng các câu tục ngữ đơn lẻ để dạy bảo từng điều, nay sử dụng cả một bài liên kết các điều lại thành một chuỗi, gọi là “xư xon côn”, ví dụ như bài dưới đây:
Pí nọng áp tớ nha láy cái nưa
Chua ngua chua khoai nha láy kháu khớ
Pợ pí nọng nha hiêc ánh thau
Hươn tớ kín kháu nha thốm nặm lai
Hươn nừa kìn ngai nha xắng nặm múc
Hụa pí nọng nha hặc
Phặc pí nọng nha váy
Kẹo pu nha láy khụt hác
Kẹo mác nha láy thác có
Hến khoai nhớ cáng tống nha phới tặt xắn
Hến chịn mu mằn nha phới tặt tón 
Hến lá ón nọi nha phới cót khò
Nha bóng lánh kháu pá mạy phái xớ khúm mền 
Táng nghền khứn cá va nhà táo pái páy tó...
Dịch:
... Người ta tắm dưới đừng lội phía trên
Mổ trâu, mổ bò không nên đến ngó
Vợ anh, em chớ gọi mình, ta
Nhà dưới đang ăn, không được nhổ nước miếng
Nhà trên dùng bữa không được xì nước mũi
Rào nhà dưới chớ bẻ
Rau nhà trên không hái
Ăn trầu không đào rễ
Bẻ cau không đẽo cây
Thấy trâu to ngoài đồng không được ước nướng thịt thăn
Thấy lợn béo căng chớ có ý chặt băm thịt mỡ
Gặp em gái nhỏ không được ôm cổ
Không được rón rén vào rừng đi bậy vào hố củ mài
Mặt trời lên ngang vai không được vạch quần 
tiểu về phía đó...( )
Chuyện kể sử dụng kể cho trẻ trong thời kỳ này đã giảm tính hoang đường, tưởng tượng, xích lại gần với cuộc sống thực của con người hơn. Nhân vật chính chủ yếu là con người, không còn là con vật như các giai đoạn trước đó nữa. Các ông bà thường hay kể các truyện thơ: Xi Thuần, U Thềm, Khun Lù Nàng Úa, Khăm Panh, lối kể chuyện xen viện dẫn thơ hấp dẫn, tạo ra sự đam mê đối với người nghe.
 Đặc biệt, các trò chơi có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn này. Phần lớn trò chơi mang tính tập thể, phân định thắng thua và có quy ước rõ ràng. Trò chơi không chỉ thỏa mãn nhu cầu vận động và rèn luyện thể lực, mà còn góp phần hình thành các tố chất: nhanh, mạnh, bền, dẻo, giáo dục tính tập thể, trung thực, ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm. Trong nhóm bạn chơi đã phân biệt theo giới tính nam, nữ, do đó các trò chơi cũng phân chia theo giới tính.
Trò chơi của các cháu gái bao giờ cũng nhẹ nhàng hơn, có tác dụng rèn luyện tính chính xác, khéo léo, mềm dẻo, đẹp mắt. Các trò chơi phổ biến nhất là: đánh đồng mắng (mác lẹ), đánh chắt, chơi ô đếm hạt (ô ăn quan), tập ném còn, tập khua lóng. Nói chung trẻ em gái ít được chơi hơn trẻ trai vì trẻ em gái phải tập làm các công việc sản xuất cùng với các mẹ, các chị như việc đồng áng, nương rẫy, bông vải, chăn nuôi, đi xúc cá, hái rau... Trong khi đi làm trên nương, đi xúc cá, vớt rêu theo suối, trẻ em gái lại có dịp bắt chước, học hát khặp, học may vá, thêu thùa với người lớn.
Trẻ em trai (con trai), ở độ tuổi 9 - 10, 12 - 13 rất ham chơi, thích mạo hiểm. Địa bàn hoạt động cũng rộng, bao gồm cả môi trường tự nhiên: rừng núi, sông suối, đồng ruộng và môi trường xã hội (trên sàn, ngoài bãi, trong bản, ngoài mường). Người lớn vừa phải hướng dẫn trẻ em chọn trò chơi lành mạnh, vừa phải hạn chế những hành vi tự phát gây hại đến sức khỏe, mải chơi quên việc, gây xích mích, mất đoàn kết. Có thể phân thành các loại trò chơi như:
Trò chơi không có dụng cụ, thường là những trò chơi tập thể, có quy tắc và tính thành tích, như các trò: thi chạy, nhảy vòng, đánh vật, thi bơi, thi lặn, trèo cây... Trò chơi có dụng cụ gồm: ném đá (ném đá có dây quấn và không có dây quấn), đi cà kheo, kéo co, cưỡi “ngựa” ném khăn, bám đu dây, súng phốc, bắn nỏ, ném lao, chơi cù, đánh ky, nhảy sào... Trò chơi sử dụng con vật có: chọi gà, thả trâu húc nhau, thi cưỡi trâu. Chơi các trò này nhằm rèn luyện khả năng chuẩn bị bước vào đời của một con người thuộc phái mạnh để thích ứng với điều kiện sống lao động sản xuất, hòa nhập với thiên nhiên, chiến đấu với thú dữ và giặc giã xâm nhập lãnh thổ. Các trò chơi đều có tác dụng rèn luyện thể lực, bồi dưỡng tố chất, hình thành đức tính can đảm. Tuy nhiên, mức độ thiếu an toàn cũng cần phải chú ý, nếu chơi không khéo dễ bị chấn thương, thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy, người chơi phải lựa xem sức khỏe, kinh nghiệm của mình khi tham gia trò chơi. Ví dụ: Chơi đu dây, người chơi nắm chắc đầu một sợi dây rừng, treo trên cành cây cao hàng chục mét, tung mình qua một khoảng trống thấp, rồi nhảy xuống bờ bên kia.
Chơi đánh ky, là hình thức rèn luyện các tố chất: nhanh nhẹn, mạnh mẽ, chính xác để chuẩn bị luyện tập đánh kiếm chiến đấu. Dụng cụ chơi là mỗi người một đoạn cây cứng, tròn, vót nhọn một đầu, dài khoảng gần một cẳng tay gọi là ky, một quả bưởi tượng trưng là chó. Sân chơi, chọn một khoảng đất bằng, đào một lỗ tròn rộng hơn quả bưởi. Thành phần chơi, gồm một người dùng ky đẩy quả bưởi đi, gọi là lùa chó. Người lùa chó có vị trí thấp hèn nhất và khó nhọc nhất trong cuộc chơi. Người lùa chó ban đầu là người thua cuộc trong việc thi phóng ky xuống mặt đất, phần cắm vào đất ngắn hơn người khác. Người lùa chó phải dùng ky lùa quả bưởi qua các cửa giữa hai người canh giữ, để dẫn vào lỗ ở giữa vòng người, dùng chân chận lại. Người canh cửa không cố định về số lượng (từ 4 - 5 đến 7 - 8 người), ngồi xổm thành vòng tròn, quay mặt vào giữa, tay nắm chắc một đầu ky, đút vào một cái lỗ cố định trước mặt. Khi người lùa quả bưởi qua cửa nào thì người canh giữ cửa đó phải rút ky ra khỏi lỗ để gạt quả bưởi trở lại. Nhân lúc đó người lùa quả bưởi nhanh tay đút ky của mình vào lỗ người kia. Nếu thành công, hai người đổi vị trí cho nhau. Người canh cửa lại ra đi lùa bưởi. Nếu người canh cửa nhanh tay hơn, đút ky vào được trước thì người kia lại tiếp tục đi lùa bưởi. Nếu lùa được quả bưởi vào lỗ đất ở giữa thì người lùa bưởi có quyền đứng ở giữa, bảo mọi người nhổ ky ra khỏi lỗ, đứng thẳng lên, nhằm sẵn một lỗ thuận lợi, bất ngờ ra hiệu lệnh chọc ky vào lỗ. Kết quả cuộc tranh giành, người nào không chọc được ky vào lỗ thì phải ra đuổi chó. 
- Chăm sóc, nuôi dạy con giai đoạn con trai, con gái tương ứng với tuổi thanh niên (từ khoảng 13 - 14 tuổi cho đến khi lấy vợ, lấy chồng).
Ở vào độ tuổi này, việc dạy bảo con cái tập trung vào nội dung dạy làm việc và làm người. Phương pháp chủ yếu là hướng dẫn, giảng giải. Cha mẹ phải biết tôn trọng con cái, hạn chế sử dụng các biện pháp ức chế. Tục ngữ có câu: Lúc piềng hính cài đá/ Lúc piềng xá cái tí (Con cao ngang chạn hết thời chửi mắng/ Cao ngang gác bếp hết thời đòn roi).
Con trai, con gái phải học các công việc lao động phổ thông theo giới tính. Trong cuộc sống hằng ngày, người Thái đã hình thành phân công lao động theo giới tính. Có những công việc chỉ có phụ nữ làm như: chăn nuôi gà, vịt, lợn, trồng bông, nuôi tằm, dệt vải, may vá, thêu thùa, vò lúa, giã gạo, đồ xôi, nấu ăn, làm rượu, xúc cá, hái rau... Một số công việc chỉ có nam giới làm như: chặt gỗ, làm nhà, đan lát, đi buôn, nuôi trâu, săn bắn... Trong viêc làm ruộng, làm rẫy, người Thái cũng phân công đàn ông, đàn bà chuyên làm một số công việc khác nhau. Nam giới đảm nhiệm việc cày, bừa, đắp bờ, nhổ mạ, dẫn nước, gánh lúa; nữ giới cấy lúa, làm cỏ, gặt hái. Để kịp thời hoàn thành các công việc theo thời gian đã định, người ta hay tổ chức làm giúp nhau, luân phiên hết việc nhà này đến việc nhà khác theo kiểu đổi công, gọi là “au háu”. Đến thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp thì mới có một số viêc cả nam và nữ cùng làm. Con trai, con gái khi tập làm việc, trước hết phải học thành thạo các công việc theo giới tính. Trong bài “Tiễn dặn người yêu” (văn bản sưu tầm ở Thanh Hóa) có câu:
... Mớn hớ vún nọng nó khú nhinh chai
Mi lúc nhinh cháng tắm húc lai
Lúc chai hụ váng thống lông Kéo táng pó.
Dịch:
... Mong cho em có đủ con gái, con trai
Con gái khéo ngồi dệt vải hoa
Con trai biết đeo túi xuống Kinh thay bố.
Tập làm việc ở giai đoạn này đã yêu cầu biết làm thành thạo đến làm tốt, làm đẹp, tạo ra sản phẩm thực tế phục vụ đời sống. Một số nghề đòi hỏi trình độ tinh xảo, sản phẩm đa dạng thì phải học suốt đời, đặc biệt là nghề đan lát đối với nam giới và nghề thêu dệt đối với phụ nữ. Việc học và sáng tạo ra các hình hoa văn trên mặt vải dệt, các sản phẩm đan lát đánh giá trình độ khéo léo, hiểu biết của con trai, con gái. Căn cứ vào họa tiết hoa văn dệt, thêu, đan trên nền thân váy, cạp váy, chân váy, đầu váy, vỏ chăn, vỏ đệm, diềm màn, khăn trùm đầu, liếp nứa, thúng mủng, ép cơm, lồng gà chọi, mâm mây, ghế mây, giỏ đeo, gùi bế,... thì biết mức độ tài giỏi của con gái, con trai.
 Phương thức truyền dạy chủ yếu là do cha mẹ chỉ dẫn cho con cái. Do vậy bố mẹ khéo nghề gì thì con cái cũng giỏi nghề đó. Đồng thời, bạn bè và người thân cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc truyền thụ nghề phụ gia đình. Vào tuổi 16 - 17, con trai, con gái trong bản đều có phường bạn. Con gái thường tập trung trên nhà sàn để cùng nhau quay sa kéo sợi, trao đổi với nhau về các mẫu hoa văn. Nhiều khi một người mắc khung cửi, cả nhóm bạn cùng đến học kệp lai (kết hoa). Bạn trai thường tụ tập ban ngày vào lúc đi chăn trâu hoặc trên sàn lúc trưa hè để cùng học đan lá, kết hoa. Bên cạnh yêu cầu biết làm việc, các bậc cha mẹ còn giáo dục cho con cái đức tính siêng năng, cần cù chịu khó, chống ham chơi, lười làm. Tục ngữ Thái có câu:
Lúc chai páu pí tang nghin, xớ chạn
Lúc nhinh quá bán dam khắm, xớ hứ.
 Dịch:
Con trai thổi khèn ban ngày, thì nhác,
Con gái chơi đêm trong bản, thì hư.
Ngoài công việc mang tính phổ thông, các gia đình còn bố trí cho con mình học một số môn chuyên biệt như học chữ, nghề thầy mo, thầy cúng (mùn, một, mo), nghề rèn, nghề bạc... tìm được thầy dạy nghề gì thì học nghề đó. Trong các mường bản có một số người giỏi chữ Thái, ham mê các truyện thơ trở thành thầy dạy cho con cháu trong bản. Con cái các gia đình có truyền thống tham gia công việc chung của bản mường như làm tạo, làm mụ, làm mo và các chức sắc hương lý... thì bắt buộc phải học chữ Thái. Thời kỳ Pháp thuộc, có quy định tuyển chọn công chức làm việc trong bộ máy chính quyền ở vùng người Thái phải biết 3 thứ chữ là chữ Quốc ngữ, chữ Pháp và chữ Thái. Những gia đình có điều kiện, gửi con xuống xuôi, theo học các trường công hoặc các trường do chính quyền mở, bất đắc dĩ, có người phải vào học chữ trong nhà thờ đạo Thiên Chúa.
Trước đây, việc bồi dưỡng kiến thức thông qua con đường học chữ chỉ là một phần nhỏ, con em trong bản hiểu biết về xã hội chủ yếu bằng các hình thức sinh hoạt dân gian truyền thống. Đó là các hình thức: Nghe người lớn kể chuyện thực tế, nhất là những người đã đi nhiều nơi, làm nhiều việc, có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống. Họ có rất nhiều chuyện để kể, nhất là về địa lý và phong tục tập quán. Thường thì những đêm trăng mát mẻ, các chàng trai tập trung về một nhà sàn nào đó có người hay kể chuyện. Các ông (bà) bạn cũ hay người có quan hệ anh em đến ngủ thăm nhau, thường hay kể nhiều chuyện lý thú. Những lúc ấy, con cháu nằm bên cạnh cũng bị các câu chuyện cuốn hút. Các câu chuyện tựa như vô tình đã mang lại cho người nghe nhiều điều mới mẻ và gợi cho họ trí tò mò muốn được trực tiếp đi khám phá thế giới. Những người thuộc nhiều truyện thơ được coi như các trí thức địa phương thì kể chuyện theo lối “nói có sách, mách có chứng”, vừa kể cốt truyện vừa viện dẫn thơ văn, nghe rất hấp dẫn. Ngoài các truyện thơ có xuất xứ Thái, còn thịnh hành các truyện thơ Nôm khuyết danh của người Kinh được dịch ra thơ Thái như: Phạm Công - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa,... Từ những đêm nghe kể truyện thơ, nhiều chàng trai đam mê đã cắp sách mài mực đến xin học với thầy. Một số người không học được chữ, nhưng nhập tâm tốt đã thuộc lòng cả truyện thơ hoặc những đoạn hay nhất. Những kiến thức xã hội do tác phẩm mang lại và cảm xúc văn học đã góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và mở rộng tầm nhìn ra ngoài rừng núi, bản mường, nuôi dưỡng những ước mơ hoài bão của con người.
Người lớn thường chọn thời cơ, lúc con cháu ngồi lại đông đủ sau bữa ăn hoặc lúc có bạn bè đến rủ đi chơi để phân tích, giảng giải về các mối quan hệ anh em, gia đình, láng giềng, bản làng, người thân, người dưng... cách xử sự từng mối quan hệ. Trong khi giảng giải, người lớn sử dụng nhiều tục ngữ, ca dao thành bài “Lời dặn dò con gái, con trai”:
... Nghe chưa hết câu đã vội cười chê,
Chưa hết ý đã vểnh môi chực đáp,
Người đang nói, ngoảnh mặt đi chỗ khác,
Loại người ấy không hay, thiên hạ chê cười.
Người cầm dao chém đất, chọc trời,
Chê trời đất không biết phân mưa nắng,
Loại người ấy không sống lâu, ở đặng.
Trời cho đầu thai xuống làm con gái,
Không được lười việc dệt vải, kéo sợi, quay sa.
Trời cho xuống làm con trai,
Không được phàm tục, chửi cày bừa giữa ruộng,
Mắc ách cho trâu thoải mái bước đi,
Về nhà không càu nhàu thành người khó tính.
Vợ chồng thành duyên từ khi ở trên trời,
Dù đần, điếc, đen cũng phải bên nhau trọn kiếp,
Không phải rắn đâu thay xác đổi da...
Đối với con gái sắp đến tuổi đi lấy chồng, các mẹ, các bác, các thím phải chỉ dẫn cách ăn ở bên nhà chồng, cách chăm sóc con cái. Người ta hay vận dụng bài khặp Tiễn dặn người yêu đi lấy chồng để viện dẫn. Ví dụ, khi nhắc con cần lưu ý những điều kiêng kỵ: Tắng pí pá nha ính/ Khinh kháo báng pí lung nha ứa/ Xứa lé cọm pó pú nha danh... (Nghĩa là: Ghế chị chồng không ngồi; thân trắng trẻo anh chồng không nhìn; áo xanh đẹp bố chồng không ngắm). Hoặc là vận dụng câu tục ngữ: Pí lung pớn pó phạ, pí pá pớn pó then (Anh chồng bằng ông trời, chị chồng bằng ông then). 
Trong sinh hoạt cộng đồng, người Thái luôn tạo điều kiện cho con cái tự học thông qua tiếp xúc với thực tế, để con cái học thêm nhiều điều từ bạn bè và xã hội, đồng thời tập cho con cái thực hành những điều đã học, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hòa nhập với mọi người. Mỗi khi láng giềng hoặc anh em có công việc cần đông người làm, cha mẹ thường cho con đi tham gia trong các việc đám (đám ma, đám cưới, đám vía...), các đám phấn chá, kin chiêng boóc mạy,... Trong những dịp này, con trai, con gái học được nhiều điều từ bạn bè, người lớn. Nội dung và cách thức tổ chức các đám việc cũng mang lại nhiều hiểu biết, nhất là lịch sử cộng đồng, phong tục tập quán, truyền thống nhớ về cội nguồn. Các bài mo, cúng, khấn, hát, trò cũng hàm chứa ngôn ngữ hình tượng, tình cảm thiết tha, đạo đức hướng thiện, tư tưởng nhân nghĩa. Ví dụ, một đoạn trong mo ma diễn đạt lời nhắn nhủ của người chết, trước lúc chia tay đi theo tiên tổ (đắm chao), mang ý nghĩa như một bài học luân lý:
... Con quý con yêu ơi!
Mặt trời lặn đến kỳ lại mọc
Bố (mẹ) ra đi không trở lại bao giờ
Phải nói lời chia tay vĩnh biệt
Dặn dò con lời ăn ở làm người
Con ở lại muốn cửa cao nhà rộng 
Phải có tấm lòng thương mến bao dung
Có nghĩa, có tình, anh em nhất trí
Tránh lời khó nghe, kỵ điều cay nghiệt
Ăn cơm sáng các con phải để canh
Ăn cơm chiều phải để phần cơm phần cá
Để canh phòng anh em về tới
Để cá phòng con cháu đến thăm
Không mắng chửi con lúc đang ăn 
Để bà ngoại ăn cơm chan nước mắt
Không chửi vợ con lúc còn đang ngủ
Để giấc mơ đau xót lòng con...
Vết thương do dao, do rìu còn có phương cứu chữa
Vết thương lòng hết cách, vô phương...( )
Trong đám cưới, người ta hay thể hiện phong cách giao tiếp khiêm tốn, lịch sự, bộc lộ tài năng ứng xử, đặc biệt thể hiện những bài hát khặp hay như bài: Xin mở cổng mường, Cảm ơn thông gia, Tiễn dặn người yêu đi lấy chồng, Giữ nhà trai ở lại... Con trai, con gái có dịp học hỏi, thể nghiệm bản thân.
Riêng kỹ năng hát khặp, con trai, con gái học được nhiều trong các cuộc rượu cần, hát giao duyên khi có con trai, con gái đến bản. Ở lứa tuổi 17 - 18, bạn bè thường rủ nhau tổ chức các cuộc đi chơi bản xa nhân dịp đi lễ hội đi chợ, đi tìm mua bán hàng thổ cẩm, đi thăm nhà anh em... các bậc cha mẹ tạo điều kiện cho đi, không ngăn cấm.
- Giáo dục con cái sau khi lập gia đình
Từ giữa thế kỷ XX trở về trước, hầu hết các gia đình người Thái Thanh Hóa là gia đình lớn, gồm nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng sinh sống trong một nhà. Những người anh em trai, thậm chí cả anh em con chú, con bác, dù đã có vợ con riêng vẫn sống chung trong một gia đình lớn, cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng chung tài sản. Theo truyền thống, anh cả làm chủ gia đình, cha mẹ (có thể đã trở thành ông bà), mặc dù không còn đứng ở vị trí chủ chốt, nhưng các bậc ông (bà) vẫn có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ đối nội, đối ngoại của gia đình. Bằng nhiều hình thức, ông bà chú tâm truyền đạt những quy định mang tính gia pháp, điều chỉnh hành vi của các thành viên trong gia đình, xử lý, giải hòa khi có vấn đề. Nhưng dù động thái gì cũng phải nhẹ nhàng, không được gay gắt. Tục ngữ Thái có câu: Mé nai đá lúc khười xớ cớ/ Pó pú chưới lúc pợ xớ kằm (Mẹ vợ mắng con rể thì gở/ Bố chồng chửi con dâu thì kiêng). Do vậy, trong gia đình người Thái trước đây luôn luôn hòa thuận, người nào việc nấy, không to tiếng bao giờ.
Như vậy, qua phong tục tập quán người Thái trong nuôi dạy con cái, chúng ta thấy rằng trong các gia đình, dòng họ người Thái có một vấn đề quan trọng là gia giáo đối với con cái. Với phương châm không dùng roi, song cũng không chiều chuộng, buông thả, lấy sự yêu thương quý trọng làm nền để nghiêm khắc, kiên trì và nhẫn nại giáo dục, rèn luyện, tạo cho con cái có được ý thức tự trọng cũng như tự lập. Với phương pháp rất cụ thể là tùy theo từng độ tuổi và trí tiếp thu để có thái độ dạy bảo cũng như giao việc tập làm phù hợp. Kiên trì dạy tỉ mỉ từng li từng tí, từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp... Chẳng hạn, công việc khó đối với con gái là nghề vải tơ, kim chỉ. Mẹ phải dạy từ hái bông, chọn bông, cán bông, cuốn đọt bông, kéo sợi, dạy hái dâu, nuôi tằm, ươm kén kéo tơ dệt thành vải. Cao hơn, mẹ dạy kỹ thuật dệt các loại thổ cẩm, từ loại hoa văn đơn giản đến hoa văn phức tạp. Từ khâu vá đơn giản nâng dần đến nghệ thuật thêu thùa. Khi đến tuổi lấy chồng cô gái phải thông thạo cắt may các thứ quần áo, làm chăn, đệm, gối, màn, rèm... Con trai được bố rèn dạy nhiều hơn từ việc tập chẻ lạt, vót nan, làm lồng chim, làm các bẫy đơn giản để bẫy chim, bẫy thú rừng nhỏ; dần dần đến việc khó hơn như làm nỏ, làm sáo, đan lát các đồ dùng đơn giản; tiến tới làm những việc yêu cầu kỹ thuật phức tạp như bện thừng, xe gai, đan chài, đan vó, đan ếp, đan bung, ép dựng xôi, làm bừa, làm cày... Nói chung cả con trai lẫn con gái, đến tuổi thành niên đều phải biết làm những thứ cơ bản phục vụ cuộc sống hàng ngày theo chức năng của giới mình.
Song song với dạy việc làm, người Thái cũng chăm chút dạy con về luân thường, đạo lý làm người. Nó đòi hỏi người lớn làm gương cho trẻ em noi theo, cốt yếu là tình cảm. Ông bà thực lòng yêu thương dạy bảo cháu, cha mẹ thực lòng yêu thương dạy bảo con, anh chị thực lòng yêu thương dạy bảo em thì những tình cảm tốt đẹp sẽ có tác động trở lại: em nghe lời và quý trọng anh chị, con nghe lời và quý trọng cha mẹ, cháu nghe lời và quý trọng ông bà. Khách đến nhà lịch sự chào hỏi, chiếu trải, đặt bầu nước, ống điếu mời khách. Người Thái có câu: “Chào khách nhà hống cáng” và “Chào khách nhà dứn mằn hại”, nghĩa là: Chào khách đứng chào khúc giữa (nói nửa lời không rõ). Chào khách đừng đứng chào (phải ngồi xuống cho lịch thiệp). Mọi người trong gia đình không được có hành động và lời ăn tiếng nói bất nhã trước mặt khách, như câu phương ngôn đã dạy: “Anh em lên nhà chớ chửi chó, bên ngoại lên nhà đừng mắng con”. Với khách xa chưa quen biết thì cứ nhìn mặt, người đáng em đáng cháu thì gọi em gọi cháu, đáng anh chị, chú thím, bác bá, ông bà thì gọi anh chị, chú thím, bác bá, ông bà...
Trên đây chỉ là những điều cơ bản trong vô vàn điều giáo dục, rèn luyện con cái trong gia đình người Thái. Mọi sự chăm sóc, giáo dục và rèn luyện cũng đều nhằm chuẩn bị cho con cái bước vào đời với hành trang: thông thạo, kiên trì, nhẫn nại trong mọi mặt lao động sản xuất; đức độ, thông minh, hiểu biết trong xây dựng cuộc sống gia đình và xã hội.
* Các nghi lễ liên quan đến hôn nhân
Cưới xin trong tâm thức của đồng bào các dân tộc là một sự kiện trọng đại, thiêng liêng của mỗi đời người, của gia đình và cộng đồng. Bởi vậy, để một đôi trai gái nên vợ nên chồng, phong tục cưới xin trong văn hóa Thái, Mường cổ truyền phải tiến hành qua nhiều bước, với một khoảng cách thời gian khá dài. Ở đây chỉ nêu vắn tắt trình tự các bước để dẫn đến hôn nhân sau khi đôi trai gái đã chính thức báo cáo với hai bên cha mẹ như sau:
- Lễ thăm dò, ướm hỏi
- Lễ bỏ trầu, ăn hỏi
- Lễ cưới dâu, đi làm dâu, đón dâu (hoặc lễ cưới rể, đi làm rể).
Trong các bước trên, nhà trai đều phải mang đủ lễ vật theo quy định, và các lễ vật trong lễ cưới phải có mấy ống cá chua (2 - 4 ống cá chua). Lễ cưới của người Thái, người Mường thường diễn ra ở hai bên. Đầu tiên nhà trai mang đồ cưới và chàng rể đến nhà gái tổ chức cưới. Sau đó, đón dâu và cưới tại nhà trai (cùng ngày, hoặc sau vài ngày nếu nhà gái ở xa). Người Thái Quan Sơn chỉ đi ở rể trong trường hợp nhà gái không có con trai và có lời lễ vật sang nói chuyện với nhà trai. Việc đi ở rể chỉ có thể xảy ra với nhà trai có nhiều còn trai và người đi ở rể chỉ là con thứ, con cả không được đi ở rể(*). 
Lễ đón dâu: Đoàn nhà trai sang nhà gái đón dâu; về nhà chồng, cô dâu mang theo gối, chăn, vải, đệm tự làm để dùng và biếu tặng ông bà, cha mẹ, anh em bên chồng. Sau các nghi lễ trước bàn thờ tổ tiên, tiệc cưới sẽ diễn ra vui vẻ với đủ mặt hai họ và bà con trong làng. Nhà trai nhờ một bà phúc hậu dễ nuôi con tới trải chiếu, căng màn cho đôi vợ chồng. Sau ba ngày bố mẹ chồng dẫn đôi vợ chồng mới cưới sang thăm bên nhà gái, người Thái gọi lễ này là “khưn hòi” tựa như lễ lại mặt của người Kinh.
Vị trí ông mối, bà mối trong phong tục xưa rất quan trọng trong toàn bộ các lễ thức của tục cưới. Họ phải là những người hát hay, giỏi ứng đối bằng câu hát, nhiều khi phải ngẫu hứng đặt lời, là người nắm vững thủ tục, lễ nghi việc cưới xin, trước đây còn thêm biết cúng nữa. 
Các lễ thức trong đám cưới người Thái theo phong tục xưa nhìn chung cũng có những quy định chặt chẽ, song cái nét đẹp cơ bản có ý nghĩa ở đây là việc xem hôn nhân là sự kiện thiêng liêng của một đời người, tôn trọng tình yêu tự do của cả đôi bên, nhất là phía người con gái; đề cao giá trị bền vững của hôn nhân. Hôn nhân không chỉ là việc riêng của mỗi cá nhân mà còn là sự kiện của cả cộng đồng gia đình, làng bản; lễ thức hôn nhân thể hiện rõ sự gắn kết cá nhân và cộng đồng. Hôn nhân gắn với yêu cầu rèn giũa tài năng, đạo đức đối với các chàng trai, cô gái đến tuổi trưởng thành. Lễ cưới là một môi trường nuôi dưỡng, phát triển vốn văn hóa dân gian cổ truyền lâu đời của mỗi dân tộc.
Ngày nay, cùng với sự thay đổi của đời sống kinh tế - văn hóa trong thời đại mở cửa, bùng nổ thông tin và đô thị hóa, đám cưới của người Thái, người Mường cũng có nhiều biến đổi, khoảng cách thời gian của các lễ thức được rút ngắn, thậm chí thực hiện trong một ngày dưới hình thức lễ đón dâu và lễ đưa dâu trong ngày cưới, đồng thời từ ngày đó họ cũng chính thức nên vợ nên chồng. Những chiếc chăn, gối đậm bản sắc dân tộc vẫn được các cô dâu chuẩn bị mang theo khi về nhà chồng để tặng ông bà, cha mẹ bên chồng như một cách bày tỏ lòng kính trọng và thể hiện sự cần cù, khéo tay của mình. Đặc biệt, khi đến tham dự lễ cưới, người thân và bạn bè cũng thường gửi tiền mừng cho cô dâu chú rể, một hình thức góp vốn để cô dâu chú rể bắt đầu một cuộc sống mới. Cô dâu ít mặc trang phục truyền thống trong ngày cưới, họ thường chọn áo dài theo lễ phục của phụ nữ Kinh.
* Nghi lễ tang ma
Người Thái ở Quan Sơn cũng như người Thái ở địa phương khác, khi có người từ 10 tuổi trở lên chết thì tổ chức mo trong lễ tang. Người ở độ tuổi dưới 10 thì chỉ cúng đưa ra nghĩa địa, không tổ chức mo trong lễ tang.
Ở huyện Quan Sơn có 6 mường và nhiều dòng họ khác nhau nên ngoài cái chung thì từng địa phương, dòng họ cũng có cách hành lễ và nội dung lời mo khác nhau. Trong đó vùng mường Xia, mường Mìn căn bản giống nhau, vùng mường Mò, mường Sại, mường Hạ giống nhau, vùng mường Chự có những điểm khác biệt.
Khi có người chết, tùy theo lứa tuổi và hoàn cảnh kinh tế gia đình và thân thế sự nghiệp, uy tín của người quá cố mà người Thái tổ chức lễ tang ma đơn giản hay phức tạp khác nhau. Có thể phân chia lễ tang ma của người Thái Quan Sơn theo các hình thức sau:
- Người chết ở độ tuổi dưới 10 tuổi (chết trẻ) tiếng Thái gọi là “lệch nọi” hay “anh on”: Khi có người chết ở lứa tuổi này, người Thái không tổ chức mời ông mo mà chỉ mời thầy cúng đến cúng đưa linh hồn người chết ra nghĩa địa, không phải mo tiễn lên trời, thủ tục tang lễ tổ chức đơn giản. Khi trong nhà có người lớn chết thì mới mổ một con lợn (to nhỏ tùy ý) mời linh hồn của đứa trẻ cùng lên trời luôn. Những trường hợp là người lớn chết nhưng chưa tổ chức mo lên trời được thì khi nào gia chủ có điều kiện, tổ chức đám tang mo gọi hồn từ nghĩa địa về để mo tiễn lên trời. Người vị thành niên chết có nghĩa địa riêng, không được chôn chung với nghĩa địa người lớn. Nghĩa địa chôn trẻ con (dưới 10 tuổi) người Thái gọi là “héo anh on”. Do trẻ em nghịch ngợm nên khi có việc đi qua bãi nghĩa địa này, nhất là lúc trời nhá nhem tối hay bị chúng bắt nạt, trêu trọc, người yếu bóng vía thường khiếp sợ.
- Người chết trên 10 tuổi thì chôn vào nghĩa địa người lớn và tổ chức đám tang ma theo nghi lễ người lớn. Theo quan điểm của người Thái Quan Sơn, con người là từ trên trời xuống trần gian để sinh sống, làm ăn. Khi chết linh hồn mọi người đều phải trở lại mường trời. Do vậy trong đám tang ma phải mo tiễn linh hồn người quá cố lên trời thì mới xong việc của đám. Chỉ có trẻ em chết chưa mang lên trời ngay được phải gửi về nghĩa địa, khi nào có người lớn trong nhà chết thì mới cùng lên. Lý do là lên trên ấy trẻ con một mình không nơi nương tựa sẽ bơ vơ, quấy phá mường trời, then sẽ trừng phạt hạ giới. 
Nghĩa địa người lớn (trên 10 tuổi) chia ra 2 loại:
+ Nghĩa địa người lớn chết bình thường do ốm đau, bệnh tật, chôn ở phía trong. Người hy sinh vì quê hương, Tổ quốc được chôn vòng ngoài.
+ Nghĩa địa người chết do tai nạn, tự vẫn, chết trôi, chết cháy, chết do sinh nở và các loại chết không bình thường khác... thì đưa vào nghĩa địa này. Tất cả người trên 10 tuổi chết đều phải mời ông mo đến lo tang lễ.
* Về tổ chức đám tang:
 - Đám tang trẻ nhỏ (dưới 10 tuổi): chưa cần mổ lợn và trâu, bò. Chỉ cần có gà, vịt, chó để lo tang lễ. Trường hợp có lợn thì cũng chỉ cúng đưa xác và hồn ra nghĩa địa, chưa đưa lên trời.
- Đám tang người lớn (từ 10 tuổi trở lên) nhất thiết phải có gà, vịt, chó, lợn hoặc trâu, bò tùy gia chủ lo liệu.
Đám tang chỉ mổ lợn, gà, vịt, chó gọi là đám tang nhỏ.
Đám tang có mổ trâu, bò gọi là đám tang to. Những đám này ngày xưa chỉ áp dụng cho người có chức sắc, địa vị xã hội và kinh tế gia đình vững vàng.
* Về trang phục trong đám tang:
Khi người chết là chồng, anh, chị ruột, bố mẹ đẻ thì vợ, em, con, cháu bên nội phải mặc áo trắng để tua và đội mũ rơm.
Khi người chết là bố mẹ vợ, bố mẹ chồng, anh chị bên vợ, bên chồng, chị dâu, anh rể thì bậc em, con, cháu mặc áo nhuộm chàm, đội mũ vải trắng. Người Thái có câu:
Pí pợ, pí khưới tư mú phái
Pí ưới, pí ái tư mú dù.
Dịch:
 Chị dâu, anh rể đội mũ vải
Chị gái, anh trai đội mũ rơm.
Riêng các cháu bên nội, khi có thím hoặc bác dâu (vợ của bác trai) chết thì bậc con, cháu phải đội mũ rơm và mặc áo tang trắng vì những người này như thể mẹ mình.
Bố mẹ chết con cái mặc áo tang trắng, đội mũ rơm; riêng con dâu, chàng rể đội mũ vải trắng, mặc áo nhuộm chàm.
Vợ chết chồng không phải mặc đồ tang.
Chồng chết, dù chồng ít tuổi hơn thì vợ vẫn phải mặc đồ tang.
* Việc để tang:
Người trong dòng họ của người chết để tang từ 3 tháng đến 6 tháng (tùy từng dòng họ).
Vợ, con, cháu, em ruột của người chết để tang 1 năm.
Con cháu bên ngoại không phải chịu tang cậu mợ, chỉ chịu tang ông bà ngoại và các bác (bậc anh, chị) của mẹ nhưng thời gian ngắn hơn bên nội, chỉ từ 3 - 6 tháng là hết tang.
* Thủ tục khi có người chết:
1. Vuốt mắt, nấu nước lá thơm tắm rửa cho tử thi.
2. Liệm tử thi (đeo vòng bạc vào trán và tay trái).
- Mặc các bộ quần áo mới, đẹp cho tử thi, bịt hậu môn, mũi, tai, miệng, buộc 2 ngón tay cái và 2 ngón chân cái lại với nhau. Để tử thi nằm ngửa theo tư thế thoải mái duỗi thẳng.
3. Báo tang (một hồi một tiếng trống hoặc chiêng).
4. Bàn việc tổ chức lễ tang (mời họ hàng, con cháu, trưởng họ và trưởng bản). Cử người đi báo chính quyền xã, các bản lân cận, thông báo cho con cháu, anh em, bạn bè, thông gia biết...
5. Sửa quan tài (làm thịt 1 con chó, 1 con vịt để cúng).
6. Đưa thi hài vào quan tài (sau chết không quá 24 giờ, không nhanh quá 6 giờ).
7. Đào huyệt.
8. Cử người đi mời ông mo.
9. Tổ chức mo.
10. Chuẩn bị chôn thi hài.
11. Chôn thi hài (không chậm quá 48 giờ sau khi chết). Ngày xưa có khi để hàng tháng mới chôn.
12. Làm nhà mồ.
13. Trong hai ngày mời linh hồn người chết về ăn cơm với gia đình (đặt 1 thúng tro ở cửa chính để theo dõi dấu chân). Sau 2 ngày (sáng ngày thứ ba) đưa cơm ra nghĩa địa cho người chết và thông báo cho người chết không được về nhà ăn cơm nữa. Đồng thời làm vườn, trồng cây cho người chết. Tiếng Thái gọi là “xông ngài” (đưa cơm).
* Các bước tiến hành mo người chết.
1. Đi mời thầy mo: Gồm có 10 lá trầu, 1 chai rượu trắng.
- Thầy mo nhận lời và báo cáo với thần mo của mình (phi tạy), mời thần mo cùng đi mo cho đám tang. Ông mo mang các dụng cụ hành nghề đi với người mời mình đến nhà có tang lễ để tổ chức đám mo theo quy định.
2. Khi đến nhà có tang lễ thầy mo phải làm như sau:
- Trước khi vào nhà hoặc lên nhà sàn phải khấn đuổi ma tà, quỷ quái đang ở trong nhà có người chết.
- Vào nhà, đến chỗ quan tài hoặc chỗ người chết đang nằm (trường hợp chưa đưa thi hài vào quan) làm động tác giải xui. Dùng gươm quét một vòng xung quanh quan tài hoặc thi hài người chết.
- Trải chiếu mo
Trước khi trải chiếu, ông mo phải khấn giải xui để bảo vệ mình thực hiện đám mo trong chiếc chiếu của mình. Dùng gươm chọc bốn góc chiếu để đánh dấu lãnh địa, không cho ma tà, quỷ quái đến gây nhiễu.
- Gia chủ đặt 1 con gà trống choai luộc, 1 chai rượu, 4 cái chén, trầu cau, 1 cuộn vải trắng, 1 vòng cổ bạc, 1 đôi vòng tay bạc vào mâm cơm đưa đến đặt giữa chiếu mo để mo cúng thần mo, mời thần mo dùng bữa và khao số vải, vòng cổ, vòng tay bạc cho thần mo (chỉ lấy tượng trưng, xong việc trả lại gia chủ).
- Mo lên ngai (tắng khài)
+ Có 1 ghế mây chỗ ông mo ngồi, 1 mâm mới đan bằng vầu 2 tầng để ông mo đặt các dụng cụ hành nghề của mình vào, chỗ gần ông mo ngồi có 1 cây đèn, buộc 1 cây mía tươi có lá.
+ Ông mo làm các động tác hành lễ và bắt đầu mo.
Mo ca của người Thái rất đồ sộ. Nếu ghi chép đầy đủ lời mo của gia đình khá giả, quyền quý có thể dày hàng nghìn trang bởi vì mo có nhiều bậc khác nhau.
Trước đây:
-    Nhà quyền quý, giàu sang mo từ 7 - 9 ngày đêm.
-    Nhà khá giả, chức thấp hơn 5 - 7 ngày đêm.
-    Dân thường 3 ngày đêm.
Đến nay:
-    Nhà nào mo dài nhất 3 ngày 2 đêm.
-    Nhà bình thường 2 ngày 1 đêm.
Lời mo dài ngắn khác nhau do mô tả gia cảnh người chết và dẫn người chết đi chơi đi thăm đây đó trước khi lên trời.
Nhà càng giàu càng kể nhiều của cải nộp cho người chết, đưa người chết đi thăm nhiều nơi nên thời gian kéo dài. Nhà nghèo hơn thì của cải, tài sản giao cho người chết ít hơn, dẫn người chết đi thăm ít hơn, lời mo ít hơn.
Lễ tang của người Thái, người Mường cổ truyền là một hệ thống hoàn chỉnh gồm hai phần chính là phần lễ thức và phần tang ca. Hai phần này song hành và đan xen với nhau. Cả hai phần này đều vô cùng phức tạp, hàm chứa nhiều ý nghĩa tâm linh và giá trị đặc sắc, nhất là phần tang ca (mo).
Phần tang ca chính là các đêm mo do các thầy mo thực hiện, theo những quy định chung và còn có thể theo tục lệ riêng của mỗi dòng họ. 
Chương trình làm việc của mo ở Quan Sơn khái quát như sau:
1. Lễ ca đánh thức người chết (khộn lục, pục tứn): 1 con lợn.
2. Lễ ca kể nguyên nhân, lý do dẫn đến cái chết của người quá cố. Lý do sự việc con cháu tổ chức đám tang.
 3. Lễ ca mời ăn cơm, thịt lợn mâm đánh thức (khộn lục, pục tưn).
 4. Lễ ca kể thân thế sự nghiệp khi còn sống của người chết.
 5. Lễ ca chuẩn bị quan tài.
 6. Lễ ca kể về hương hoa thắp cúng.
 7. Lễ ca gọi hồn người chết vào nhập quan.
 8. Lễ ca xin đất, xin ruộng, xin vật liệu làm nhà mồ, mời cơm mừng nhà mới (nhà mồ).
9. Lễ ca mời cơm tối (pống pàu) có lợn hoặc trâu, bò.
 - Lễ ca kể về trâu, bò (nếu có) phục vụ đám tang (tay ắm óc ngùa, khoài).
 - Mo dẫn hồn người chết đi chơi (nếu có thời gian). Việc đi chơi và đi nhiều đi ít không bắt buộc.
10. Mời tổ tiên (tằn lắm chào) về ăn mâm công đức (pàn công khùn), có lợn, gà, cá, hoa quả, ốc, ếch...
11. Lễ ca dẫn hồn người chết chào thần bản, thần mường, họ hàng, làng xóm, con cháu, gia đình. Giao của cải, vật dụng, dụng cụ sản xuất... cho người chết. (Giáo chướng hườn tô giáo, xăng bán xăng mường họ hàng hườn giáo).
12. Lễ ca mời ăn cơm mâm cỗ lớn (kín kháu pàn luống), thịt lợn hoặc trâu bò.
13. Lễ ca tiễn hồn người chết về nghĩa địa, tiễn hồn lên trời, vào nhà then.
14. Lễ ca giao hồn người chết cho tổ tiên (lắm chào) và trời (phạ, then).
15. Lễ ca dặn dò người chết (xăng nòn xón du).
16. Lễ ca gọi vía ông mo, vía con cháu, người thân, bạn bè và mọi người tham gia tiễn đưa người chết ra nghĩa địa và lên trời. Hết việc mo tại nhà có tang lễ, gia chủ trả tiền công cho ông mo như đã thỏa thuận khi đi mời.
17. Gia chủ mang 1 con gà, 1 chai rượu trắng, trầu cau và các đồ lễ, vật dụng cho mo như: đôi gói thịt lợn hoặc trâu bò có đủ thịt, da, nội tạng đã luộc chín (cắt thành miếng) như món ăn tại mâm cỗ lớn (pàn luông), 1 đùi trước của lợn và trâu hoặc bò làm thịt, các vật dụng của mo trong đám tang. Cử người đưa tiễn mo về nhà.
Về đến nhà, ông mo đặt các đồ lễ và tiền công vào mâm cúng báo cho tổ tiên nhà mình và thần mo biết, mời họ ăn. Họ dùng xong lễ cúng đó, mọi lễ vật mới được sử dụng. Đồng thời mời thần mo lên ban thờ chờ khi có người mời lại đi tiếp( ).
Như vậy, lễ tang cũng là một môi trường bảo tồn văn hóa cổ truyền. Lễ tang cổ truyền của người Thái, hay người Mường hiện nay đã có nhiều thay đổi theo xu hướng bớt đi các lễ thức, rút ngắn phần tang ca, loại bỏ hủ tục, thực hiện theo quy định nếp sống mới.
b. Phong tục tập quán và nghi lễ làm vía
* Quan niệm của người Thái về hồn vía
Con người ta tồn tại được là nhờ có linh hồn. Linh hồn người nào khỏe mạnh, thoải mái thì người đó mới được mạnh khỏe và hoạt động bình thường.( ) Ngược lại, linh hồn của người nào không khoẻ mạnh thì người đó không bình thường, không minh mẫn để làm ăn, cho nên người Thái rất quan tâm đến phần hồn, ngay cả khi còn sống. Mỗi khi có sự việc liên quan đến tinh thần, tình cảm là đồng bào tổ chức lễ nhằm động viên, hoặc tìm gọi linh hồn về. Việc tổ chức làm lễ như vậy đều được gọi là làm vía (ệt khoắn).
Lễ làm vía là một tập quán từ ngàn xưa của người Thái. Họ quan niệm, trong con người, có hai phần: phần xác và phần hồn, hồn lìa khỏi xác thì con người sẽ ốm yếu dẫn đến tử vong vì vậy phải làm vía để hồn vía được ăn mà gắn bó với con người; có như vậy người mới khỏe mạnh, sống lâu. 
* Các loại làm vía và nghi lễ trong tục làm vía
Người Thái quan niệm, con người có rất nhiều hồn vía: “Sam síp khuôn mang nả, hả síp khuôn mang lăng” (Ba mươi vía đằng trước, năm mươi vía đằng sau: vía tóc, vía lông mày, vía mắt, vía ngón chân ngón tay, vía thóp thở, vía bàn tay, vía xương sườn...). Nếu đau ốm hoặc một bộ phận nào đó trên thân thể bị đau là do vía ấy bị lạc lối, bởi thế phải cúng để gọi vía về, cầu cho nó khỏe mạnh. Chính vì quan niệm như vậy, người Thái nói chung, người Thái Quan Sơn nói riêng có rất nhiều lần làm vía trong cuộc đời của mình: làm vía trẻ con mới ra đời, làm vía trẻ con mất vía, làm vía trẻ con mới ốm dậy, làm vía đặt tên, làm vía hàng năm (ông bà ngoại làm vía cho cháu từ lúc sơ sinh đến khi cháu đi lấy chồng thì thôi), vía thượng thọ, vía trả ơn, vía đóng hòm... Mỗi loại vía có một mục đích khác nhau, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, là cách thể hiện những tình cảm cho nhau và cầu mong những điều tốt lành đến với gia đình, cha mẹ và con cháu. 
Tập tục làm vía có hai loại chính: Loại thứ nhất con trai, gái, dâu, rể làm vía cho bố mẹ (còn được gọi là báo hiếu). Tục lệ thường có 1 con lợn, 1 con gà để xem chân, các con khác làm thịt để chế biến các món cúng. Mâm cúng có đủ thịt, rượu và đôi vợ chồng, con cái có một bộ quần áo cho bố mẹ, vòng tay vía cho lên mâm cúng vía. Khi cúng xong các con quàng quần áo, váy cho bố mẹ và mời bố mẹ vào ăn gọi là “tóm khoắn”, ăn xong lấy chỉ trắng buộc cổ tay để giữ vía cho bố mẹ mạnh khỏe, sống lâu. Loại thứ hai là ông bà ngoại, cậu, mợ làm vía cho các cháu ngoại. Thủ tục cũng gồm lợn, gà; mỗi cháu một bộ quần áo, hai bát, hai đôi đũa. Khi sắp xong mâm ông bà, cậu phải đích thân gắp cho các cháu ăn cỗ trước gọi là “tóm khoắn”, như vậy các cháu mới khỏe mạnh và thể hiện được tình cảm cậu, mợ dành cho các cháu ngoại. Tục lệ này đến nay vẫn còn được bảo lưu.
Về tục làm vía vòng đời của con người:
- Lần 1: Lần làm vía đầu tiên là khi đứa trẻ ra đời được 3 ngày tuổi. Lễ này gọi là lễ “oóc phày” - ra khỏi lửa. Theo tục người Thái ở Quan Sơn, khi sản phụ đã sinh nở thì phải ngồi trên lá thuốc đặt ở cạnh bếp bên trong của bếp dành cho nữ giới trong nhà để hơ lửa trong thời gian 3 -7 ngày (tùy từng nơi và tùy sức khỏe của sản phụ). Thời gian đó cháu bé được đặt trong thúng 4 cạnh (lúng xi ché) dùng để nuôi tằm đã được rửa sạch sẽ, phơi khô. Trong thúng đặt tã lót. Trên miệng thúng che tấm vải màn để ngăn bụi và ruồi muỗi. Thúng đặt cháu bé được để dưới sàn nhà, sát nơi mẹ cháu ngồi hơ lửa trên bếp.
Sau 3 ngày hoặc 7 ngày, khi thấy người đã ráo, mẹ cháu bé ra khỏi nơi hơ lửa cùng con lên nằm ở gian ngủ của mình. Ngày đó gia đình làm lễ oóc phày cho cháu bé và mẹ cháu. Đồng thời đặt tên cho cháu luôn. Lễ này mời ông bà ngoại đến dự. Nếu không còn ông bà ngoại thì cậu mợ hoặc bác trai bên ngoại cùng dòng tộc của bé. Cũng có dòng họ hoặc gia đình khi cháu bé đầy tháng mới đặt tên. Nhưng phần lớn là đặt tên bé trong lễ oóc phày.
- Lần hai: Khi cháu bé tròn một tháng (30 ngày) bố mẹ hoặc ông bà nội cháu bế ngửa cháu ra khỏi nhà (phải ra khỏi bóng ngôi nhà) đi xung quanh nhà ở dưới sân một vòng khép kín gọi là lễ “quá khôộng” hoặc “oóc khoọc”. Lễ này để cho cháu bé tiếp xúc với bên ngoài, với thiên nhiên trời đất cũng là để cháu biết xung quanh nhà mình mà gắn bó lớn lên, trưởng thành. Lễ này chỉ riêng trong gia đình. Nghi lễ chỉ có con gà hoặc quả trứng gà luộc để làm lễ. Sau lễ này cháu bé có thể được bố mẹ đưa ra khỏi nhà để thăm bên ngoại.
- Lần ba: Khi cháu bé đã gần qua tuổi thiếu niên (14 - 15 tuổi) gia đình làm lễ “tặt sai u, sái lá” cho bé. Lễ này nhằm gọi vía cho bé đã sắp trở thành người lớn bước vào đời không nằm nôi nữa. Lễ tổ chức khá lớn, có mời bà một về cúng, làm thịt một con lợn và nhiều gà để cúng và tiếp đãi họ hàng nội ngoại, bà con trong bản.
Đến nay, người Thái Quan Sơn học tập theo người Kinh làm lễ đầy tháng, ba tháng, đầy năm cho bé. Trước đây, lễ ba tháng và đầy năm mừng sinh nhật người Thái không làm.
- Lần 4: Trước khi con gái đi lấy chồng, bố mẹ cũng làm vía động viên con đi xây dựng gia đình, xa cách người thân, vía hãy đi theo chủ đừng ở lại nhà bố mẹ nữa. Lễ này gọi là gọi vía gái (khoăn xáo).
- Lần thứ 5: Khi con người đã trở về già, có con trai, con gái cưới vợ, lấy chồng sinh con cái thì làm vía cho bố mẹ. Lễ này gọi là “ệt khoắn hớ pó mé” - làm vía cho bố mẹ. Mục đích nhằm tạ ơn bố mẹ đã sinh thành nuôi mình khôn lớn, trưởng thành, có gia đình riêng (có vợ, có chồng, có con). Chỉ những người con đã có gia đình riêng thì mới làm vía cho bố mẹ.
Còn một loại vía không thể thiếu được là bên ngoại làm vía cho cháu ngoại (khoăn lung tá). Vía này không hạn định thời gian. Những khi cháu ngoại bị ốm đau thì ông bà ngoại, bác ngoại, cậu mợ sẽ làm vía cho cháu. Trong đó, có một kì làm vía chính không thể thiếu được là khi cháu ngoại đã đến tuổi trưởng thành. Lễ này là lễ lớn, mổ lợn, gà và chia tài sản cho cháu. Trong mâm cơm đặt cho cháu ngoại ăn thì cả mâm, bát, đũa, thìa, môi... đều cho cháu luôn. Ngoài ra còn cho cháu tiền bạc, vòng cổ, vòng tay. Những nhà giàu có cho cả trâu, bò, lợn gà giống để cháu làm vốn liếng riêng. Do vậy, người Thái rất quý trọng, tôn sùng bên ngoại, đồng bào có câu: “Lung tá a nha nọi” (Bên ngoại là ông vua con).
Ngoài ra, khi ốm đau, gặp nạn, bị giật mình do sự cố nguy hiểm nào đó thì người nhà hoặc bên ngoại cũng làm vía (gọi vía gọi hồn) cho mình. Tùy theo sự kiện mà lễ vật có thể là quả trứng luộc, con gà, con lợn, tiền, vải, quần áo...
Trong làm vía, có một vật không thể thiếu là áo đã mặc của người được làm vía. Sau mâm cơm vía, bao giờ cũng buộc chỉ vào cổ tay hay cho tiền hoặc hiện vật để vía và người được vui vẻ, hết đi sự sợ hãi mất hồn, mất vía.
Những lúc có người chuẩn bị đi xa, hoặc đi xa về gặp người thân thì gia đình cũng làm vía cho người đó, như: thanh niên đi bộ đội, thoát li gia đình, gái đi lấy chồng, người thân ở xa lâu ngày đến thăm. Mục đích những cuộc làm vía này là dặn dò vía hãy bám theo chủ chớ rời xa. Nếu vía lạc chủ thì chủ sẽ ốm đau. Làm vía khi người thân đến nhà là để gọi vía của họ về. Chủ đã về rồi thì vía cũng phải về theo, đừng la cà, lưu lạc nơi khác, nhà khác. Hai nước bạn là Lào và Thái Lan - hai quốc gia có nhiều người Thái - khi có người đến thăm ngoài công việc, hội nghị, tọa đàm, thăm thân ra, thế nào họ cũng tổ chức một buổi lễ làm vía cho khách. Buổi lễ đó rất long trọng mà tình cảm thắm thiết, thân thương. Dù làm vía ở đâu, cho ai, hình thức nào, thể thức cũng như lễ vật to hay nhỏ... khi kết thúc tất cả các cuộc làm vía người được làm vía đều được cột chỉ ở cổ tay để buộc lại cho cháu dấu hiệu của làm vía. Nếu là nam thì cột ở tay sợi chỉ đen. Nếu là nữ thì cột sợi chỉ trắng hoặc bằng sợi đay (cây cọ pan). Cũng có khi cháu ngoại bị đứt chỉ cổ tay, cậu hoặc ông ngoại đến nhà buộc lại cho cháu thì không cần tổ chức làm vía mà buộc lại vẫn được. Nay người ta buộc cổ tay bằng sợi chỉ trắng cho cả nam và nữ.
6.1.5.3. Tín ngưỡng cổ truyền
Tín ngưỡng là một lĩnh vực văn hóa có sức sống âm thầm mà mãnh liệt trong sinh hoạt tinh thần của các cộng đồng dân cư. Với đồng bào các dân tộc ở Quan Sơn cũng vậy, tín ngưỡng dân gian từ ngàn xưa đã ăn sâu bắt rễ trong tư tưởng, tình cảm, được lưu truyền qua nhiều thế hệ và vẫn hiện diện trong đời sống hôm nay như một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mỗi gia đình, cộng đồng bản làng. Trong phần này, cuốn địa chí chỉ nêu khái quát về tín ngưỡng dân gian Thái. 
a. Quan niệm về thế giới
Theo quan niệm người Thái, thế giới chia làm bốn tầng theo trục dọc. Tầng con người đang sống trên mặt đất gọi là mường lúm (mường thấp), hay mường piềng (mường bằng). Phía trên mường lúm là mường vun. Phía trên mường vun là mường phạ (mường trời). Phía dưới mường lúm là mường lúm linh (người lùn bằng bình vôi). Mỗi tầng lại chia ra các vùng. Tầng phạ bắt đầu từ “Ba mươi con đường tới, chín mươi con đường chụm” (xám xịp lăm tang hậu, cáu xịp lăm tang tóm), đi qua khu vực vòng ngoài là mường vun, vào đến vòng trong là mường then. Mường vun là thế giới mà linh hồn con người lên hưởng hạnh phúc vĩnh hằng sau khi hoàn thành tốt đẹp kiếp sống làm người. Các thế hệ linh hồn quần tụ theo đắm, nghĩa là theo tổ tiên, dòng họ. Mường then được miêu tả như kinh đô, có nhà cao, cửa rộng, nhiều loại chức dịch xã hội, đứng đầu là pó then, còn gọi là pó phạ hay then luông, tức vua trời. Pó phạ là vị thần cao cả nhất, biết hết mọi thứ trên trời, dưới đất, có quyền phán quyết mọi việc trong thiên nhiên và đời sống con người. Quan niệm về pó phạ, pó then, then luông được phản ánh trong tất cả các hoạt động liên quan đến đời sống tâm linh, tục lệ kiêng kỵ, đặc biệt là trong mo lễ tang và trong tục thờ trời. Làm người phải biết kính trọng và sợ phép trời. Người Thái quan niệm, trời sẽ xử phạt những hành vi bất kính. 
Người Tày Dọ rất coi trọng thờ trời nên đã xây dựng đền thờ trời gọi là đền Chín Gian. Ở Nghệ An có đền Chín Gian nổi tiếng, xây dựng trên núi Pu Quai thuộc mường Tôn, huyện Quế Phong. Tại Thường Xuân, người ta tổ chức thờ trời (lễ sớ phạ) trên núi Pu Pen thuộc bản Lùm Nưa, phía trước là cánh đồng nằm trong thung lũng Trịnh Vạn và nơi gặp nhau giữa hai con suối nặm Ác và nặm Lẹ. Lễ thờ trời là lễ hội lớn của mường Trịnh Vạn, diễn ra vào tháng chín âm lịch, kéo dài 5 ngày, tất cả mọi người dân trong 9 pọng tham gia. Lễ vật do dân các pọng đóng góp, trong đó có một con trâu làm thịt cúng trời.
Tục thờ trời của người Tày Mươi (Thái Đen ở Quan Sơn) thể hiện trong các hình thức cầu nguyện và trình báo như thờ áo trên đỉnh núi hồn mường, treo áo trên cành cây thiêng đầu bản, treo nhau trẻ sơ sinh trên thân cây, cầu mưa, cầu mùa màng, cầu sức khỏe, thờ cúng các thần trên trời, lễ tục kin chiêng, phấn chá, cúng bản, cúng mường... 
b. Tín ngưỡng đa thần hay tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”
Tín ngưỡng đa thần hay tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” là quan niệm phổ biến trong các cộng đồng cư dân các dân tộc. Tín ngưỡng này đặc biệt đậm nét trong lịch sử và hiện hữu đậm nhạt khác nhau ở các cộng đồng người.
Cư dân Thái nói chung cũng giống nhiều nơi khác có tục thờ đa thần, gồm cả nhiên thần và nhân thần. Nhiên thần gồm có thần núi, thần sông, thổ công, thổ địa, hang động, rừng thiêng, thần cây, thần nhà, thần bếp. Mỗi nhà ở khu đất riêng đều dựng một cái lều thờ thần thổ công ở dưới sân hay ngoài vườn. Khi có khách đến thăm, sắm sửa được bữa ăn thịnh soạn, hay trước khi uống chỉnh rượu cần, người Thái có thói quen cầu khấn mời các thần ăn trước. Ngay cả khi đi rừng, đi sông, lúc giở gói cơm ra ăn, người ta không quên có lời khấn mời thần núi, thần sông. Lễ cúng mái nhà và thần bếp của mỗi gia đình thường bố trí vào trung tuần tháng Giêng âm lịch. 
Nhân thần được người Thái thờ cúng gồm có nhân vật truyền thuyết, người có công với nước, với cộng đồng và tổ tiên, dòng họ. Nhân vật truyền thuyết được người Thái ở Quan Sơn thờ cúng điển hình nhất là Tư Mã Hai Đào.
c. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Cũng như người Kinh (Việt) và các dân tộc khác, người Thái coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Với mỗi gia đình người Thái, dù sống trong ngôi nhà cổ hay ngôi nhà hiện đại,... vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà là nơi đặt bàn thờ tổ tiên (còn gọi là bàn thờ gia tiên).
Khác với ngư¬ời Việt, thờ cúng tổ tiên nhiều đời trên cùng một bàn thờ và làm giỗ chạp theo ngày mất của ông bà tổ tiên, ng¬ười Thái trong thờ cúng tổ tiên, không làm định kỳ theo ngày kỵ (ngày mất của tổ tiên). Hàng năm đồng bào chỉ cúng vào ba dịp cố định, đó là vào dịp năm mới, lễ cơm mới, về nhà mới (nếu có).
Thờ cúng tổ tiên trong dịp năm mới: Vào dịp cuối năm, khi mùa vụ thu hoạch đã xong là khoảng thời gian mọi người nghỉ ngơi sau một chu kỳ sản xuất, lao động vất vả và cũng là để lo tính cho mùa vụ tới. Do vậy, mọi người mọi nhà đều h¬ướng vào việc tổ chức lễ tết - nghi lễ mà ông bà tổ tiên họ bao đời tuân thủ. Trong các bản, các mư¬ờng không khí trở nên nhộn nhịp hơn, ng¬ười ta lo đánh cá, săn bắn, giã gạo, làm r¬ượu trấu... phát vư¬ờn, dọn dẹp nhà cửa. Khi Tết đến, mọi nhà đã chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết. Sáng mùng 1 Tết (âm lịch) mọi ngư¬ời, mọi nhà tập trung làm các mâm lễ Tết, trong đó mâm cúng tổ tiên là quan trọng nhất. Cùng với mâm lễ này gia đình còn phải làm một số mâm lễ nữa tuỳ theo vai trò, vị trí của gia đình đó trong dòng họ. 
Lễ vật trong mâm cúng tổ tiên gồm các món ăn bình thư¬ờng, vốn có như: các món cá, thịt lợn luộc, gà luộc, xôi, canh măng, các loại bánh truyền thống. Ngoài ra, còn có các món chế biến từ cá.
Thờ cúng tổ tiên trong dịp lễ cơm mới: Lễ thờ cúng tổ tiên trong ngày này không đ¬ược ấn định tr¬ước. Tr¬ước đây ng¬ười Thái chỉ làm một vụ lúa là vụ mùa. Do vậy, lúc đầu họ chỉ làm cơm mới vào dịp mùa thu hoạch đã hoàn tất. Lễ này diễn ra vào ngày nào là tuỳ thuộc vào quan niệm chọn ngày và điều kiện, hoàn cảnh của các gia đình. Thông th¬ường, lễ cơm mới đư¬ợc tổ chức vào khoảng tháng 11 (âm lịch). Đây là nghi lễ mang tính truyền thống nên bắt buộc mọi nhà phải tiến hành. Trong ngày này, mâm cúng và nội dung thờ cúng tổ tiên là quan trọng nhất. Đồng bào quan niệm rằng để có hạt lúa mang về nhà là sự lao động vất vả quanh năm, đồng thời đó cũng là một phần đóng góp của ông bà tổ tiên - đã phù hộ cho gia đình. Do vậy, làm lễ cơm mới, mời ông bà tổ tiên đầu mùa là tỏ lòng biết ơn tổ tiên, đồng thời cầu mong ông bà phù hộ cho mùa vụ mới được tươi tốt hơn.
d. Lễ ăn Tết năm mới
Trước đây, người Thái Quan Sơn ăn Tết năm mới vào tháng 3 âm lịch, thời gian gần giống như Tết té nước của người Lào. Người Thái quan niệm rằng khi nào trời có tiếng sấm, gà rừng gáy, bìm bịp kêu, ếch, nhái kêu... thì mới gọi là năm mới. Trời sống lại, vạn vật sinh sôi, nảy nở thì con cháu làm Tết mời ông bà, ông vải ở trên trời xuống ăn Tết. Đồ cúng chủ yếu là cá đồ, cá nướng, tôm, cua đồ, thịt lợn, gà luộc, cơm mới, rượu cần, rượu nước. Sau đó, thầy cúng mời ma nhà, linh hồn ông bà quá cố trên trời xuống ăn Tết, cầu mong ông bà phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Văn cúng có đoạn: “Mú, má, hớ tếm lang; chạng, mạ hớ pến pừng; kháu nặm hớ tếm xá, tếm thán”, có nghĩa là: Lợn, chó, gà, vịt cho đầy gầm sàn; voi, ngựa cho thành đàn, thành lũ; lúa thóc cho đầy gác nhỏ, gác to. Lễ này to nhỏ tùy theo từng gia đình. Gia đình khá giả, có chức sắc như tạo mường thì cúng to, có trống, chiêng, khua lóng, có đại diện các bản chúc Tết, hứa hẹn sang năm mới xây dựng bản mường giàu đẹp hơn. Lễ Tết này hiện nay không còn như trước, bà con chuyển sang ăn tết Nguyên đán như vùng miền xuôi( ).
 Nhìn chung, nét khác biệt giữa tín ngưỡng của người Thái, người Mường, người Kinh hay người Mông hiện nay không phải ở bản chất của tín ngưỡng mà là ở nghi thức và tục thờ. Xu hướng duy trì và phục hồi những yếu tố tích cực trong tín ngưỡng cổ truyền được thể hiện khá rõ. Xu hướng này thể hiện rõ đạo lý uống nước nhớ nguồn như một phẩm chất quý giá ẩn trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng các dân tộc. Hiện nay, khi đời sống kinh tế đã có nhiều khởi sắc, việc thờ cúng tổ tiên trong các ngày lễ tết, lễ cưới, mừng nhà mới, thanh minh càng được đồng bào chú ý hơn, tổ chức lớn hơn, bàn thờ tổ tiên được trưng bày nhiều đồ thờ trang trọng, thay cho sự đơn sơ, mộc mạc trước kia. Đó là những đổi thay tích cực, góp phần bảo vệ giá trị gia đình, xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.
6.1.5.4. Lễ tục, lễ hội
 Lễ cúng vía lúa: Hằng năm, vào đầu tháng 9 âm lịch, khi lúa đã chín vàng trên nương, người Thái bước vào mùa thu hoạch. Khi lúa đã được chở về chứa đầy nhà dân trong bản, già bản cùng trưởng bản họp cả làng để chuẩn bị tổ chức lễ mừng được mùa. Lúa là loại lương thực cơ bản cho sự sinh tồn nên rất được quý trọng. Họ quan niệm hạt lúa và ngô có hồn nên phải làm lễ cúng tế, như vậy mùa sau mới gặp may mắn, tiếp tục được mùa. Lễ mừng được mùa được tổ chức ngoài trời, ngay tại nương rẫy với thời gian khoảng 2 tiếng. Đối với mỗi mùa vụ, sẽ cúng vía trước và sau khi thu hoạch. 
Trước khi cấy trỉa làm rẫy, làm nương, người Thái chuẩn bị lễ vật gồm một con gà luộc chín chặt ra, rượu, xôi đồ mời hồn lúa về dùng cơm cúng thần địa, mời thần ăn và bảo vệ cho cây lúa được phát triển tốt tươi, không bị sâu bọ phá hoại, đồng thời mời ma nhà chứng kiến để bảo vệ. Khi thu hoạch, dân bản cũng làm một lễ tương tự, họ đem tất cả những sản vật quý nhất của bản như: con gà luộc chín, đĩa thịt, bánh các loại và không thể thiếu một mâm cơm gạo mới để dâng lên các vị thần và tổ tiên.
Sau khi các lễ vật được sắp xếp đầy đủ, chủ lễ là thầy mo của bản sẽ thay mặt bà con dân bản làm lễ cúng trời đất, tổ tiên phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, có sức lao động để sản xuất, cảm ơn ma nhà chứng kiến, các vị thần phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia súc sinh sôi nảy nở từng đàn, gà rừng, chim, chuột không phá hại ruộng, rẫy... Đại ý lời khấn như sau:
Thưa thần đất, thần nước 
Tháng hai chúng con gieo hạt
Tháng ba trời cho sấm sét
Tháng chín thu hoạch có thóc ăn
Nhớ ơn các thần
Hôm nay ngày lành tháng tốt
Chúng con dâng lên các thần
Loại thóc đỏ, thóc đen vàng óng
Mong các thần hãy nhận lễ vật và phù hộ
Cho chúng con vụ mùa sau bội thu hơn vụ mùa trước. 
Buổi lễ cúng vía kết thúc trong niềm vui hân hoan của bà con dân bản, mọi người cùng nhau quây quần bên đống lửa, uống rượu cần, ăn uống, hát hò tới tối. Ai cũng hi vọng các ma nhà, các thần đất, thần nước sẽ nghe thấu những lời cầu mong của họ và tin tưởng vào vụ mùa sau sẽ có nhiều thóc hơn và cuộc sống sẽ sung túc hơn. 
Lễ cúng cơm mới: Sau khi đã thu hoạch lúa về nhà, mỗi gia đình sẽ làm lễ cúng cơm mới. Lễ vật là một con gà, cá sông hay cá ao đã nướng hoặc kho, rượu và không thể thiếu một mâm cơm đồ. 
Người trong gia đình hoặc mời thầy mo về báo cáo với tổ tiên, ma nhà năm nay được mùa hay không, hôm nay con cháu có lễ vật mời ông bà tổ tiên ăn trước để phù hộ cho con cháu làm mùa sau được tươi tốt hơn. Lời cúng như sau: Hôm nay là ngày bao nhiêu..., con cháu có cơm mới mời ông bà tổ tiên về ăn trước để phù hộ cho gia đình. Hàng năm vào vụ thu hoạch phải cúng cơm mới mời thần linh sau đó gia chủ mới được ăn cơm vụ thu hoạch đó.
Lễ cầu mưa: Lễ tục này không phải năm nào cũng diễn ra và ở bản nào cũng có. Khoảng tháng 4, 5 âm lịch nếu thời tiết hạn hán, người ta sẽ tiến hành lễ cầu mưa. Lễ vật cũng đơn giản chỉ là một con lợn, rượu và xôi.
Già bản cử thầy mo, thầy cúng đứng ra làm lễ. Người được cử sẽ đọc lời cầu để con cháu làm theo. Người ta lấy cây cỏ, dây ven bờ ruộng, bẹ tre, sau đó buộc vào miệng lóng giã gạo giẫm lên cho kêu (tạo tiếng kêu to để ông trời nghe thấy và biết trần gian đang còn khô hạn). Họ đi vào từng nhà lấy nước, té vào đoàn đi cầu mưa gồm 30 đến 40 người (con trai, con gái chưa lập gia đình) và nói to “mưa rồi, mưa rồi”. Đoàn cứ tiếp tục đi cho tới đêm khuya. Cũng có lễ cầu mưa làm vào những đêm trời sáng trăng. Thời gian làm từ 20 giờ đến 23 giờ. Nếu ngày hôm sau có mưa sẽ dừng lại, nếu chưa mưa sẽ tiếp tục cầu. 
Hiện nay do hệ thống cấp nước đã hình thành, vì thế lễ cầu mưa chỉ diễn ra vào những năm hạn hán kéo dài. 
Lễ tục thờ thần: Tương truyền trong các vị thần của mường Mìn có ông Lò Khằm Yên (Tạo Lá Dốn) từ Lào sang giúp Lê Lợi đánh quân Minh. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Lê Lợi ban thưởng cho ông đất đai. Ông chọn đất mường Mìn để ở và mất ở đó. Đền thờ của ông làm bằng gỗ tại Pom Giới thuộc bản Luốc Làu, xã Mường Mìn. Năm 1948 Pháp ở đồn mường Xia xuống càn đã đốt cháy, đến nay chưa được khôi phục lại. Ngoài ra ở mường Mìn còn có hai vị thần có công với nước cầm quân đi đánh giặc cờ vàng (quân Thái Bình Thiên Quốc thế kỷ XIX) hy sinh vì nước là thần Tiều Lành ở bản Chiềng và thần Tiều Quế ở bản Nhài( ) (hai vị thần này là đời thứ 6 hậu duệ của ông Lò Khằm Yên). Dân bản mường coi thần là một vị linh thiêng, trông coi phù hộ sức khỏe, an lành cho dân vì thế khi người dân gặp phải rủi ro, hoạn nạn, mùa màng thất bát họ thường đi tế thần nhờ thần phù hộ cho tai qua nạn khỏi. Mỗi vị thần được họ xây dựng nhà thờ riêng bằng gỗ, nứa thô sơ để thờ cúng hàng năm nhằm bày tỏ lòng biết ơn người có công và xin thần phù hộ cho bản mường mạnh khỏe, mùa màng xanh tốt, chăn nuôi phát triển, cá sông suối lên nhiều. Mỗi năm một lần cúng tế thì cúng tế lợn, gà; năm thứ ba hoặc thứ năm cúng to thì cúng tế trâu, bò. Ngày lễ được tổ chức vào đầu tháng tư dương lịch. Trước khi vào lễ, nhà thờ được sửa sang; nhân dân vệ sinh bản làng, nhà cửa, xay lúa, giã gạo đủ ăn trong 3 ngày, sau đó đón ngày lành tháng tốt để làm lễ tế. Đồ tế gồm có lợn, gà; năm nào to thì có trâu, bò. Ngoài cỗ còn có vải vóc, bạc nén, vòng cổ, vòng tay dâng lên lễ tế thần. Trong dịp lễ, dân bản mường được nghỉ 3 ngày (cằm xần) cũng là 3 ngày vui chơi giải trí, giao lưu văn nghệ và các trò chơi dân gian như trống, chiêng, khua lóng, chơi cù, to lẹ, ném còn... Hiện nay, lễ tế thần chưa được khôi phục( ).
Lễ hội mường Xia
Lễ hội là hình thức sinh hoạt cộng đồng thể hiện lòng thành kính đối với những người có công với bản làng, với nước, ý thức cộng đồng và khát vọng về một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trên vùng đất Quan Sơn, tiêu biểu nhất là lễ hội mường Xia (xã Sơn Thủy). 
Hiện nay, ở bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn vẫn còn nền móng nhà ở của gia đình Tư Mã Hai Đào và thủ phủ - nơi ông làm việc thuở xưa (nay trên nền đất ấy là Trường THCS xã Sơn Thủy).
Nhớ ơn người đã có công gìn giữ biên cương, mang lại ấm no cho bản mường và đặc biệt là làm nên sự phồn vinh cho một vùng đất trù phú, xanh tươi, sau khi ông mất, bà con lập đền thờ để hàng năm tiện việc hương khói thờ phụng và coi ông như người giữ vía cho cả mường. Theo tục lệ truyền thống, toàn bộ người dân mường Xia gửi vía vào một hòn đá gọi là hòn đá vía (tiếng Thái gọi là lặc mắn) để cầu ông giữ vía cho cả mường. Cũng từ đó, mỗi lần tổ chức lễ hội mường Xia là mỗi lần hòn đá vía được đào lên tắm rửa sạch sẽ, sau đó bọc vải đỏ trân trọng rước về làm lễ. Xong lễ hội, người ta thận trọng rước về nơi quy định, và hòn đá vía tiếp tục được chôn xuống chỗ của nó, sau đó rào cây xương rồng trấn giữ. Hiện nay, hòn đá vía ở mường Xia vẫn còn nguyên tại vị trí cũ, ngay giữa bản Chung Sơn, gần sát nền móng nhà ở của Tư Mã Hai Đào xưa kia. 
Hằng năm, vào những ngày giữa tháng 3 âm lịch, bà con mường Xia tổ chức lễ hội mường Xia để tri ân Tư Mã Hai Đào và mong cầu ông phù hộ cho bản làng no ấm, cuộc sống an lành, mùa màng tốt tươi, con người và vạn vật sinh sôi, nảy nở. Khi mở hội mường Xia, trai thanh gái tú trong mường và các mường khác như: mường Mìn, mường Khiết, mường Ly, mường Lò,... và cả mường Bén, mường Sôi (nước Lào) cũng về tham dự ngày hội. 
Lễ hội mường Xia gồm hai phần là phần lễ và phần hội. Phần tế lễ được tổ chức tại 5 điểm trên địa bàn của đất mường Xia. Đó là: cúng thần mường (tại đền thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào), cúng vía chung cho cả đất mường Xia (tại nơi chôn hòn đá vía và đền thờ tướng quân Tư Mã Hai Đào), cúng Sần Cuống ở Sộp Xia (tại nơi giao hòa của suối Xia và sông Luồng), cúng Sần Phiềng Phay (bên bờ sông Luồng, gần thủ phủ của Tư Mã Hai Đào), cúng Sứa Tú Nặm (tại hang Dùa, dưới chân núi Pha Dùa). Lễ vật gồm: 1 con trâu trắng, 1 con bò, 3 con lợn, 1 con chó, 1 con vịt, rượu cần, rượu siêu và vài chục con gà. Theo quan niệm của người Thái, những vị thần đó đều là những vị khách quý, đo đó đồ lễ phải thực sự như một mâm mời khách quý. 
Nhạc cụ cho phần rước của lễ hội mường Xia là cồng chiêng. Nhạc cụ dùng trong việc tế lễ tại đền tướng quân Hai Đào là sáo trúc. Phần hội được thể hiện qua các trò chơi, trò diễn của lễ hội như: múa cá sa, trống chiêng, đánh mắc lẹ, bắn nỏ, đẩy gánh, kéo co, khua lóng. 
Lễ hội mường Xia đã từng bị lãng quên một thời gian. Vào năm 2010, huyện Quan Sơn đã khôi phục và tổ chức lễ hội mường Xia lần thứ nhất và năm 2015 tổ chức lễ hội mường Xia lần thứ hai. Lễ hội đã thể hiện được văn hóa truyền thống của tộc người Thái vùng biên cương Quan Sơn. Lễ hội mường Xia thể hiện xu thế khôi phục, làm sống dậy những giá trị văn hóa, tạo điều kiện cho lễ hội này tìm lại vị thế của mình trong đời sống tinh thần của cộng đồng.
Sơ đồ mâm lễ tại điểm cúng hòn đá vía (lặc mắn)
    


6.1.5.5. Văn học dân gian
a. Truyện kể dân gian: Lưu truyền trên vùng đất Quan Sơn phổ biến nhất là những truyện kể về sự tích địa danh, sự tích lập bản mường, truyện kể về những người có công xây dựng, bảo vệ quê hương bản mường. Những truyện kể này dẫu mới ở dạng sưu tầm, nhưng vẫn có giá trị cung cấp tư liệu để người đọc biết tới, có thể sẽ là những cứ liệu để tìm hiểu sâu hơn những trầm tích văn hóa, lịch sử của vùng đất Quan Sơn. 
Truyện kể về ông Phạm Hai (Hai Xim), người đầu tiên khai lập bản Nhài
Theo những câu chuyện truyền miệng qua nhiều đời ở địa phương, vào thế kỷ XVII, bản Nhài là một đám đất hoang, rậm rạp, piềng (bãi) màu mỡ, có thể khai hoang thành ruộng đồng, nên đã có một số ít cư dân đến làm ăn sinh sống nhưng chưa có cánh đồng rộng và bản làng hoàn chỉnh. Đến khoảng mùa đông năm 1688, ông Mường Mìn tên là Phạm Bá Nọi, bí danh Tiều Nọi phân cho bốn con trai đi các nơi để mở mang diện tích, sáng lập bản làng (ông thứ hai, tức ông Hai Xim xuống bản Nhài, ông anh cả lên bản Bơn, hai ông em còn lại ở lại bản Chiềng). Về sau ông thứ ba tên là Đông làm tạo mường nối nghiệp bố. Ông Hai Xim được phân công như vậy không hài lòng nhưng vẫn đi. Ông nghĩ đến đó ở dông dài một thời gian rồi quay về bản Chiềng. Theo đó mà có các tên gọi: bản Dài, suối Dài... Khi chính thức đến nơi ở mới làm tạo bản ông lại rất nhiệt tình, sốt sắng với công việc. Ông chiêu dụng thêm dân đến ở, lãnh đạo, hướng dẫn dân bản đắp đập khơi mương, dẫn nước suối Dài ra khai hoang các piềng bãi dọc theo hai bờ suối và cạnh sông Luồng thành hai cánh đồng rộng trên mười héc-ta ở giáp nhau mà dân bản Dài thường gọi bằng cái tên trìu mến là Tống Cuống, Tống Noóc (cánh đồng trong, cánh đồng ngoài). Trong đó, có một thửa ruộng to nhất mường, cấy hết 1.200 bó mạ trên một héc-ta gọi là Hơi Luống (thửa to). Đây là cánh đồng rộng, đứng vào bậc thứ hai của mường Mìn thời xưa và là cánh đồng tốt nhất của mường cả về phong cảnh và độ màu mỡ. Dân bản rất phấn khởi, tự hào với thành quả lao động của mình, an tâm làm ăn, cày cấy các loại lúa nếp đặc sản của địa phương. Đến mùa lúa chín, khắp đồng thơm ngát như hoa nhài, do đó bản đổi tên thành bản Nhài. Bản Nhài là cái tên đầy ý nghĩa, vừa hợp cảnh, vừa hợp tiếng; từ đó cái tên bản Nhài được dùng chính thức (từ năm 1996, khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp cấp cao).
Về sau, lớp con cháu của ông còn tiếp tục khai hoang mở rộng thêm diện tích như: Ná Lách bên kia sông Luồng đối diện với bản gọi là Ná Phác Nơ (ruộng bên kia sông), mở rộng tiếp vào phía trong suối Nhài cạnh làng gọi là Na Có Lâu Luốc Pông (ruộng cây sến, đồng lầy), mở tiếp xuống dưới làng như Na Bát, Na Nghịu, Đông Khuông và cuối cùng là Na Lộc, Na Khá, Pháng Khá. Do diện tích được mở rộng, dân cư cũng được du nhập thêm nên bản làng ngày càng rộng lớn, đông vui và dần dần hình thành ba nhóm dân cư nằm cách nhau trên dưới 1km dọc theo đường cái ven sông Luồng ngày xưa, nay là quốc lộ 217 xuyên suốt sang Lào. Bản chạy dài trên 3km gồm Nhài Trên, Na Nghịu (Nhài Dưới), Na Lộc. Ba bản nhỏ hợp lại thành một bản lớn hoàn chỉnh, xưa gọi là Pọng Dài có tạo pọng, quan bản, chá bản và Na Lộc được phân làm bản thín chuyên phục dịch tạo bản, tức tạo pọng.
Nhân dân bản Nhài rất mến phục ông Hai Xim, vì vậy khi ông qua đời dân bản làm quan tài bằng cây bi, tiếng Thái gọi là khón vín cho ông. Ông em ở bản Chiềng cũng làm một quan tài bằng cây mang, tiếng Thái gọi là khón xím đắp trùm lên phía ngoài cho ông. Vậy là ông Hai được đắp hai quan tài gọi là trùm kép; từ đó dân bản mường gọi ông là ông Khón Vến Khón Xím. Đây là một trường hợp đặc biệt. Dân bản Nhài nhớ đến công lao của ông với tư cách là người đầu tiên khai lập nên bản Nhài, nên đã tôn linh hồn ông lên làm thần bản, gọi là thần Khón Vến Khón Xím, rồi lập đền thờ cúng hàng năm từ thời đó đến ngày khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám mới thôi( ).
Truyện kể về hai vị thần ở mường Mìn
Ở mường Mìn có hai ông là Tiều Lành tức Phạm Lành ở bản Chiềng Mìn (nay là xã Mường Mìn) và ông Tiều Quế tức Phạm Quế ở bản Nhài, Mường Mìn xưa (nay là xã Sơn Điện), đã đứng lên tập hợp nhân dân vùng mường Mìn, mường Xia thành lập một đội quân đánh giặc cờ vàng bảo vệ quê hương, đất nước. Đội quân người Thái do hai ông chỉ huy đã tiến về phía tây bắc sông Mã cùng với đội quân của huyện Quan Hóa ngày xưa đóng đồn trấn ải ở Quán Pế sông Mã thuộc bản Đỏ, xã Phú Lệ (nay là xã Phú Thanh, huyện Quan Hóa, giáp ranh với huyện Mai Châu - Hòa Bình) để chặn đường tiến quân của giặc cờ vàng xuống Quan Hóa - Thanh Hóa.
Quân cờ vàng được bọn tay sai dẫn đường đã từ Mai Châu tiến quân ra tập kích đánh đồn Quán Pế. Đội quân do hai ông chỉ huy đã cùng với đội quân của huyện đánh trả quyết liệt, bẻ gãy đợt tiến quân của giặc xuống Quan Hóa. Trong trận giao chiến ác liệt này, quân giặc bị tổn thất nặng nề, nghĩa quân cũng bị hi sinh một số tại đây, số còn lại đánh truy kích quân địch lui vào phía Mai Châu, đến cánh đồng bản Bó - Chiềng Chu (mường Mùn) thì gặp quân chi viện của giặc ập tới. Nghĩa quân ở vào thế bất lợi về tương quan lực lượng, lúc này quân ta ít hơn quân địch nhiều lần, để đánh trả quân thù, hai ông cùng với quân của mình dựa vào gò đất và gốc cây thị ở cánh đồng bản Bó - Chiềng Chu đánh cầm cự với quân địch đến cùng và anh dũng hi sinh.
Ông Tiều Quế được nhân dân bản Nhài quê ông rước về làm thần bản, lập đền thờ cúng hàng năm. Linh hồn của các ông còn được các ông mo cúng đưa lên làm thần mường Dùa (tức thần núi Pha Dùa) để trông nom, cai quản bản mường. Ngoài việc lập đền thờ cúng, người Thái vùng Quan Hóa, Quan Sơn nói chung và Mường Mìn - Sơn Điện nói riêng nhà nào cũng cúng ma nóc nhà (tiếng Thái gọi là “phí đăng kha”, tức ma trên nóc nhà). Trên đường từ mường trời xuống đến bản “Cum Làng”, các thần đi thuyền theo bờ biển đến cửa sông Mã, Thanh Hóa rồi ngược lên theo dòng sông Mã đến bến Hồi Xuân, Quan Hóa rồi tiếp tục lên đến đồn Quán Pế làng Đỏ và gốc cây thị ở cánh đồng bản Bó - Chiềng Chu mời linh hồn những tử sĩ ở hai nơi này cùng về ăn cỗ với họ hàng, con cháu ở quê nhà. Nguyên văn lời cúng như sau: “Dá dá này, mời lấy linh hồn ông cha tử trận ở Quán Pế đồn xưa này, mời lấy linh hồn các tử sĩ ở gốc cây thị cánh đồng bản Bó (Chiềng Chu) này về ăn cơm với họ này, về ăn cỗ với con này”. (Tiếng Thái là: “Dá dá này, mới ấu đắm dú Quán Pế tí đôn luống này, mời ấu đắm đú cộc có hướng bán Bó này, khăn na tó Chiềng Chu này, mưa kín kháu nóm hàng này, mưa kín páng nóm lúc này”).
Truyện kể sự tích phân chia ranh giới mường Mò, mường Chự
Chuyện dân gian kể lại rằng ngày xưa mường Mò rất rộng nhưng tạo mường Mò nghiện hút thuốc phiện, ít quan tâm đến dân chúng nên dân mường Mò đói, khổ hơn các mường khác lân cận. Nhân dân một số bản kề với mường Chự muốn về với mường Chự sinh sống làm ăn, nhưng tạo mường Chự nói nếu về thì lấy cả đất cùng về mới cho, nếu chỉ di cư về mường Chự thì không đồng ý. Từ nguyện vọng đó của nhân dân nên tạo mường Mò và mường Chự tổ chức các cuộc thi, ai thắng thì được đất, được dân.
Cuộc thi thứ nhất: Thi xuôi bè kéo bè theo sông Lò, hai bên gặp nhau ở đâu thì chia ranh giới ở đó. Theo đó tạo mường Chự phải đóng bè kéo từ Chiềng Xày (cửa suối Xày Km 19, đường 217 ngày nay). Đồng thời giao kèo với người giám sát của mường Mò là do phải kéo bè ngược nên người giám sát không được lên bè mà đi theo đường bộ để giám sát. Lợi dụng tình thế này, khi vào chỗ khuất thì bè cũ bỏ lại cho bè trạm trên xuất hành theo kiểu chạy tiếp sức. Vì vậy mà cùng thời gian như nhau nhưng bè của mường Chự đi được nhiều quãng đường hơn bè mường Mò xuôi từ bản Mò, Tam Thanh xuống. Mường Mò thấy lạ không nhất trí cho kiểm tra lại thì quả nhiên mường Chự có ba bè ở ba trạm cách xa nhau để tiếp ứng.
Hai bên lại tổ chức cuộc thi thứ 2: Mổ một con trâu đực to giã làm chẻo rồi chia đều cho hai đoàn của hai mường với số người bằng nhau lấy cơm nếp đồ và chấm chẻo ăn. Đội nào ăn xong trước thì đội đó thắng. Đội của mường Chự ranh ma hơn, vừa lấy cơm chấm vừa dùng ba đầu ngón tay bốc chẻo trâu kèm vào một ít cơm mỗi lần chấm nên chẻo mau hết, đội mường Chự lại thắng. Đội mường Mò chưa nhất trí đòi kiểm tra lại thì thấy cơm ở mường Chự còn nhiều mà chẻo thịt trâu mường Chự thì hết, thấy không hợp lý, nên cuộc thi không thành.
Hai bên tổ chức cuộc thi thứ ba là thi cưỡi ngựa: Mỗi đoàn chuẩn bị một con ngựa khỏe, một người giỏi cưỡi ngựa cùng xuất phát tại trung tâm mường có sự giám sát chéo lẫn nhau, hai ngựa xuất phát cùng một giờ, chúng gặp nhau ở đâu thì chia ranh giới hai mường ở đó. Chạy đến cửa suối Lý (cầu sông Lò bây giờ) ngựa mường Mò không chịu qua sông Lò. Ngựa của mường Chự lên gặp ở đó nên hai mường thống nhất lấy điểm này làm ranh giới.
Từ đó, mường Mò không còn bản Ngàm và bản Bôn do phải giao lại cho mường Chự cùng các bản khác, nên đặt thêm bản Ngàm, bản Bôn mới cho mình, do đó hiện nay hai mường đều có bản Ngàm, bản Bôn.( )
Truyện kể về sự tích núi Lá Hoa (pha Bóc Mạy)
Ngày xửa ngày xưa, xuất phát từ tình cảm bang giao thắm thiết giữa hai nước Việt - Lào, vua nước Việt đã gả công chúa cho hoàng tử, con vua Lào. Chẳng may gần đến ngày đi đón dâu thì chàng rể là hoàng tử anh bị ốm không sang Việt Nam đón dâu được. Theo tục lệ cho phép, vua Lào cử hoàng tử em đi đón dâu thay anh. Khi sang đến Việt Nam, nhìn thấy chị dâu xinh đẹp quá, hoàng tử em chợt có ý định cướp chị dâu làm vợ. Từ ý định đó, chàng cùng đoàn rước dâu cố tình kéo dài thời gian rước dâu bằng cách cho đoàn rước dâu nghỉ ngơi dài ngày ở nhiều nơi( ). Tại địa danh bản Khà( ) chàng hoàng tử em đã tổ chức lễ cưới với chị dâu và định cùng nhau sống ẩn dật lâu dài ở nơi xa xôi hẻo lánh này. Vua Lào chờ mãi không thấy đoàn rước dâu về liền cho người đi dò la tin tức thì mới biết hoàng tử em đã lập bản ở lại đất Việt Nam, nơi sơn cùng ngõ tận heo hút mà cả vua Lào và vua Việt đều không biết.
Biết đây là một tội nặng sẽ bị vua cha trừng phạt nghiêm khắc nên hoàng tử em của nước Lào và chị dâu (công chúa Việt) đã lên đỉnh núi đá tự vẫn. Hồn vía cùng thể xác của họ biến thành các cây có lá đủ các loại màu sắc rực rỡ trên núi cao. Từ đó người dân địa phương đặt tên cho núi này theo tiếng Thái là Bóc Mạy (núi Lá Hoa).
b. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao
Tục ngữ, ca dao của người Thái rất phong phú. Những câu tục ngữ, thành ngữ được người Thái sử dụng trong cuộc sống rồi lưu truyền từ bao đời nay là một phần không thể thiếu trong di sản văn hóa truyền miệng của người Thái ở Thanh Hóa, Việt Nam nói chung và ở Quan Sơn nói riêng.
Chiếm một số lượng đáng kể trong tục ngữ của người Thái là những câu tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất. Tuy trình độ kinh tế chưa phát triển, nền sản xuất còn ở dạng tự cung tự cấp nhưng người Thái đã sớm có nền văn minh lúa nước. Từ xa xưa ông cha đã biết đến kỹ thuật đắp đập đào mương dẫn nước vào piềng (bãi) để khai hoang làm ruộng nước. Bằng mắt thường họ quan trắc dây thừng, dây rừng hoặc bằng kéo máng nước, rồi đào mương, đắp đập bằng gỗ, nứa (tài nguyên sẵn có tại chỗ), ngăn sông, suối, đào thành con mương dài hàng cây số như mương Luông bản Chiềng Mìn, khai hoang hàng chục héc ta ruộng nước làm gốc, nếu không đủ lương thực mới làm thêm rẫy. Do đó, người Thái có câu: “Háy tếm tá vau pan nà huối nọi”, nghĩa là: Rẫy đầy mắt không bằng ruộng thửa nhỏ”( ). Họ khuyến khích phát triển ruộng nước, hạn chế phát nương làm rẫy. Bởi vì, làm nương rẫy phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nếu năm nào mưa gió thuận hòa thì năm đó được mùa, còn nếu năm nào thời tiết khắc nghiệt thì mất mùa, cuộc sống bấp bênh. Mặt khác làm nương rẫy là phá rừng, hủy hoại môi sinh, môi trường ảnh hưởng đến đời sống con người. Do vậy, trong nhận thức của người Thái, họ cho rằng dù nương rẫy rộng bao nhiêu cũng không chắc ăn bằng một thửa ruộng con. 
Ý thức về ruộng nước đã được người Thái xác định cùng với quá trình lập bản, dựng mường: 
Mì nặm kin, chăng mì lín du.
Dịch:
Có nước uống mới có đất ở(1).
Người Thái thường chọn sống quần cư ở các thung lũng lòng chảo, chân núi, nơi có địa hình rộng thấp gần sông suối, có điều kiện làm mương, đập đưa nước vào các piềng bãi để khai hoang làm ruộng nước. Làng và ruộng luôn gắn với nhau, làng trên ruộng dưới nên người Thái có câu: “Háy tín phá, nà tín ván”, nghĩa là: “Rẫy chân núi đá ruộng dưới làng” là tốt nhất. Đơn vị hành chính xưa lấy mường làm gốc: “Quần mì mường, phường mì kháu”, nghĩa là: Người có mường như cây lúa có bông. 
Kinh nghiệm xem thời tiết chọn ngày tháng gieo trồng xưa dựa vào một số hiện tượng để dự báo thời tiết như nghe sấm động đầu năm, người Thái có câu:
Pha họng húa Sằm pánh xá
Pha họng húa Má pánh xiếm.
Nghĩa là:
Sấm động đầu sông Chu sửa gác lúa
(Tức năm đó mưa thuận, gió hòa được mùa)
Sấm động đầu sông Mã sửa thuổng đi đào củ mài
(Tức năm đó sẽ hạn hán, mất mùa, đói kém)
Người Thái cũng có kinh nghiệm chọn ngày, tháng gieo trồng từng vụ mùa. Họ thường chọn theo kiểu bấm đốt ngón tay, chia thành 8 loại ngày nằm trong 2 vòng trong và ngoài ứng với những điều may, rủi, đó là những ngày “cấn cóng, xướm cóng, kim cóng - vòng trong; cấn xá, xướm xá, kín vá - vòng ngoài”, còn “khóa ngàng, khóa ho” - ở giữa. Người ta thường chọn cấy, trỉa ruộng rẫy vào ngày cấn cóng, xướm cóng là ngày tốt lúa, hoa màu củ nhiều, bông chắc, ma nhà bảo vệ không bị tà ma khác ăn cắp, quấy nhiễu.
Tục ngữ có câu: “Hươn lơ hách háy hách nà mén mự cấn xá, xướm xá đắm hươn nhằng khúm/ Hươn lơ hách háy mén mự hại phí chứ páy áu” (Nghĩa là nhà nào trỉa rẫy, cấy ruộng vào ngày “cấn xá, xướm xá” thì ma nhà bảo vệ, nhà nào trỉa, cấy vào ngày xấu ma nhớ ngày đi lấy). Trong 8 ngày, người ta kiêng nhất là ngày “khóa ho” là ngày rủi ro nhất, cấy, trỉa, dựng nhà, đi đường, cưới xin không bao giờ làm vào ngày này.
Người Thái xưa có tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, họ coi anh, em trong làng như anh, em một nhà, sớm tối, vui, buồn có nhau. Họ có câu: “Nọng pí dù cáy vau pớn tày huốm ván”, nghĩa là: Anh em nhưng ở xa thì không bằng người cùng làng bản. Có miếng ăn họ cùng chia nhau, biếu nhau, ai cũng được ăn. Ví dụ người thợ săn bắn được nai, hoẵng, lợn lòi đều đưa ra một nửa con để biếu làng, chia đủ cho đầu hộ, nửa còn lại làm bữa mừng may mời anh em trong làng đến ăn và ngược lại khi thợ săn hoặc bất cứ ai người trong làng gặp phải rủi ro mọi người đều đến thăm hỏi và xúm tay giúp đỡ.
 Trước đây thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày và đồ dùng ngày Tết (chủ yếu là thịt chim, thú rừng, cá và các loại măng, nấm...) đều được tìm kiếm trong thiên nhiên. Ở mường Mìn, sông Luồng, suối Yên, suối Bun có tiếng nhiều cá. Xưa kia người Thái trong vùng có câu ca: “Pá khinh lướm tớ nặm dong vóc láo sau”, nghĩa là: Cá chạy ăn dưới nước như sao trên trời. Đến mùa xuân, hè cũng là mùa ăn Tết tháng 3 âm lịch trùng với Tết Bunpimay của người Lào, bà con thường rủ nhau đi đánh bắt cá tập thể, phổ biến có mấy cách: thứ nhất gọi là “hặp còn”, bà con rủ nhau đi cả làng, tìm đoạn sông chỗ nào có hai nhánh nước chảy họ đắp kín một nhánh cho nước chảy sang nhánh thứ hai để cạn nước và bắt cá; cách thứ hai dùng thuốc từ vỏ cây, lá cây, hạt cây giã ra hòa vào nước cho cá say để bắt gọi là “vưa pá”; cách thứ ba dùng phên nứa chặn ngang dòng sông rồi dùng phên nứa làm sàn cho nước chảy vào sàn cá, nhất là mùa mưa lụt gọi là “lý”; cách thứ tư gọi là “pha bằng”, cách này xua đuổi cá chạy vào một vùng rồi bao vây đánh bắt bằng các phương tiện như chài, lưới, vó, xúc (Đây là cách đánh bắt cá đông vui nhất có cả đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ tham gia). Cá bắt được đem chia đều cho mọi người theo quy định của lệ làng. Tập quán săn bắt và đánh bắt cá tập thể hiện nay không còn duy trì vì thú rừng và cá không còn nhiều như trước.
Sống gần rừng, nhờ rừng, xem rừng là chỗ nương tựa cả về vật chất và tinh thần của con người: “Tái pa phắng, nhằng pa liệng” (Chết rừng chôn, còn rừng nuôi) nên người Thái có nhiều kinh nghiệm về khai thác và bảo vệ rừng:
Mì lín chăng mì dá
Mì pa chăng mì nặm.
Dịch:
Có đất mới có cỏ
Có rừng mới có nước.
Hay:    
Dóm pa bạy lùn lăng chăng má
Bạy hớ nặm chú bo láy lồng
Phớ chứ láy khoăm nặn mằn chăng pến cồn.
Dịch:
Giữ rừng cho muôn đời rừng xanh phát triển
Để cho muôn mó nước tuôn trào
Ai nhớ được câu nói ấy thì mới nên người.
    Phần lớn những câu tục ngữ về lao động sản xuất của người Thái cho thấy họ là những người yêu lao động, trân trọng những người cần cù, siêng năng: 
Căm kháu dú tớ lín
Căm kín dú tềnh pa
Phớ cháng xóc láy kín.
Dịch:
Hạt cơm dưới đất
Miếng ăn trên rừng
Ai khôn khéo tìm được ăn.
Về việc học hành, người Thái luôn khẳng định vai trò của người thầy dạy chữ, giá trị của sách vở cho chữ để tu thân: 
Dác lặc pành xày
Dác páy pành mạ.
Dịch:
Muốn biết quý thầy
Muốn đi quý ngựa.
Hay:    
        Bau hụ xứ mềnh bau pến xư có bau hụ.
Dịch: 
    Không biết chữ mình hư cũng không nhận ra.
Xã hội bản mường Thái xưa rất coi trọng giáo dục tự giác, chú trọng giáo dục đến từng lứa tuổi. Đối với người già, họ luôn tôn trọng và coi người cao tuổi là chỗ dựa, là trụ cột cho làng, cho gia đình về mặt tinh thần. Khi có công có việc trong nhà, trong bản, người Thái thường dọn mâm riêng cho người cao tuổi và sắp đặt ở vị trí trang trọng nhất trong nhà, sau đó mới đến các mâm đại trà của con cháu. Mâm của người cao tuổi thường là những thức ăn ngon nhất. Về mùa đông, họ dành chăn, áo ấm cho người già, lấy củi tốt đốt cho người già sưởi ấm... Lời nói của người cao tuổi được con cháu tôn trọng tuân theo:
Phu tháu sớ ệt cốt lạu sáu kéo hớ ván hớ hườn.
Dịch:
Người già làm cột trụ cho bản, cho nhà.
Hay:
Hớ phu tháu kín con, nắng nứa.
Dịch: 
Cho người già ăn trước, ngồi trên.
Hay:
Khoàm phú tháu pớn páu ngần, khằm.
Dịch:
Lời người già quý như đống bạc, vàng.
Đối với thanh niên, lứa tuổi con trai, con gái sắp đến tuổi trưởng thành (khoảng 13 - 15 tuổi trở lên), người nhà (bố, mẹ) tổ chức làm lễ cắt dây nôi, dây võng. Ýnghĩa của lễ này là công nhận con mình đã lớn khôn, không còn nằm nôi, nằm võng như trẻ nhỏ nữa, cầu mong con được khoẻ mạnh xinh tươi, cường tráng như bao trai tài gái giỏi khác. Người Thái cho rằng người đến tuổi thanh niên là nhuệ khí của gia đình, làng bản; là sức mạnh tinh thần, vật chất của xã hội, cho nên đồng bào đã có câu: 
Phú khá khánh hành lít
Việc hại pến việc lí pớ mi phú núm.
Dịch: 
Người khỏe chân cường tráng
Việc xấu thành việc tốt bởi có lớp trẻ.
Người Thái coi trẻ em là mầm sống tương lai nên thường dành sự ưu ái, tình cảm tốt đẹp nhất cho con trẻ. Tục ngữ Thái có câu:
        Lình nọi ói hặc.
Dịch:
        Trẻ em là vốn quý.
Hay:     
        Pành lúc tay mớ púm màn
Pành lán tay chờ hiếng cớt.
Dịch: 
        Yêu con từ khi mới chửa
Yêu cháu từ lúc mới nở, mới sinh.
Trong thái độ đối nhân xử thế, người Thái nhắc nhở nhau:
Nha úp lái mằn ca
Nha bá lái mằn ngau
Nha cáu lài mằn pớn.
Dịch:
Đừng nói nhiều nó quá
Đừng nhắc nhiều nó buồn 
Đừng gãi lâu nó trớt.
Hay: 
        Ngắm hại hớ pí, mằn chệp tọng 
Ngắm hại hớ nọong mằn chệp tặp.
Dịch:
Nghĩ xấu cho anh nó đau lòng 
Nghĩ xấu cho em nó đau gan.
Đối với khách đến nhà, hoặc với người thân đến nhà, phải biết phép tắc “khách đến cắm cần rượu” và “con cháu đến nhà cho nắm cơm, ông bà đến nhà đơm miếng trầu”. Khách đến nhà lúc nào cũng được quý trọng: 
Mà dàm chạu kin ngài 
Mà dàm xai kin láu 
Tấu dàm khắm nòn xưa, hôm phà.
Dịch:
Đến buổi sáng ăn cơm
Đến buổi tr¬ưa uống r¬ượu 
Đến buổi tối ngủ đệm, đắp chăn.
Đối với mường bản, hàng xóm, cần phải lấy tinh thần cộng đồng làm trọng: 
    Căm pạ pó dọn phạ
        Căm pạ bán dọn húa chớ.
Dịch:
Mồ côi bố tại trời
Mồ côi bản tại mình.
Hay:     
        Kháu mương lơ áu mạy mương nặn ệt tóc
Óc mương lơ áu vơ mương nặn hó kháu bén.
Dịch:
Đến mường nào lấy cây mường ấy làm lạt
Ra đến mường nào lấy lá mường ấy gói bánh ú.
Người Thái quan niệm, sống lẻ loi không bạn bè dù có tài giỏi đến mấy cũng không thể xây dựng nên làng, nên bản. Muốn xây dựng nên làng nên bản cần phải đoàn kết, tập hợp nhiều người, có già, có trẻ. Trong quan hệ với cộng đồng, quan niệm của người Thái là vỗ tay cần nhiều ngón, bàn kĩ cần đông người, nhiều cây làm nhà mới đẹp, mới may mắn, nhiều cột chống vững sàn, nhiều anh em nhà mới vui vẻ, làm người phải trông rộng nghe xa, biết luật, biết lý mới là người tinh, rõ đường phải trái phân minh, sống có nghĩa có tình mới nên người.
Tóm lại, kho tàng tục ngữ, ca dao của người Thái lưu truyền trên vùng đất Quan Sơn rất phong phú. Đó là những tri thức, kinh nghiệm quý báu, là những đúc kết của dân gian về lao động sản xuất, giao tiếp ứng xử trong gia đình và cộng đồng, là những phương châm đối nhân xử thế, những luân lý về đạo đức, làm người. Hệ thống ca dao, tục ngữ đa dạng ấy đã phản ánh vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất, tính cánh, những nét đẹp văn hóa của con người trên vùng đất Quan Sơn.
c. Dân ca (khặp)
Dân ca của dân tộc Thái có hai tiểu loại chính là dân ca sinh hoạt và dân ca nghi lễ. Dân ca nghi lễ là những bài mo, khấn, cúng,... Dân ca sinh hoạt là các lời hát nhằm thực hiện chức năng sinh hoạt trong cuộc sống hàng ngày như ru con, vui chơi, bày tỏ tình cảm đối với quê hương đất nước, bày tỏ tình yêu lứa đôi hoặc trong những sinh hoạt tập thể có tính chất giao lưu đối đãi phong tục như uống rượu cần. Dân ca sinh hoạt của người Thái có tên gọi chung là khặp, có nơi gọi là khắp.
Khặp không chỉ có nghĩa là hát, mà còn có nghĩa là thơ ca, cách trình diễn thơ ca. Những lời khặp có vần vè như thơ nhưng nó còn có nhạc điệu và tiết tấu. Trong các thể loại văn học dân gian Thái, khặp phát triển mạnh và xâm nhập vào cả thể loại chuyện kể dân gian (diễn ca các tác phẩm văn học dân gian bằng khặp). 
 Khặp có nhiều loại khác nhau, cách phân loại có khi tùy thuộc vào ngữ cảnh người khặp, tùy từng địa phương. Hiện nay, phổ biến có ba cách chính để phân loại khặp. 
Cách thứ nhất phân loại theo địa phương. Mỗi địa phương có giọng nói, âm vực khác nhau sẽ có các điệu khặp khác nhau. 
 Cách thứ hai là phân loại theo nội dung. Tùy theo nội dung mà người hát có thể có hình thức khặp khác nhau. Chẳng hạn, nếu là sử thi như “Quắm tô mương” hay “Táy pú xấc” thì không khặp mà chỉ đọc có làn điệu. Nếu là anh hùng ca thì khặp xư nghĩa là ngâm, tương tự như ngâm thơ. Còn các tác phẩm như Xống chụ xon xao, Khun Lù Nàng Úa thì khặp theo điệu “bao xao”...
Cách thứ ba phân loại theo làn điệu khặp. Tùy theo hoàn cảnh cụ thể mà người khặp có thể khặp những làn điệu khác nhau. Trong bữa tiệc liên hoan, đón khách quý, đám cưới thì khặp theo làn điệu “pàn lấu, pàn khấu”, điệu khặp chậm, thiết tha, giọng vừa phải. Khi đang trên rừng kiếm củi hay hái măng,... thì khặp theo làn điệu “khăm pá qua đông” (hát qua rừng qua núi). Khi trên đường, trên nương thì khặp theo làn điệu “long tong”. Khi đang xuôi bè thì khặp theo làn điệu “lóng pè”, điệu khặp thiết tha, khoẻ mạnh, giọng ngân cao vang vọng núi rừng, sông nước. Khi ru con ngủ thì khặp theo làn điệu “ứt ừ lúc”, giọng ngân dài, thiết tha trầm bổng. Những tác phẩm thuộc thể loại sử thi thì có thể khặp làn điệu khặp xư, tương tự như ngâm. Các truyện thơ như Khun Lù Nàng Úa, Xống chụ xon xao thì khặp theo làn điệu “bao xao”. 
Kho tàng khặp của người Thái ở Thanh Hóa nói chung, Quan Sơn nói riêng rất phong phú. Nếu ở Tây Bắc phổ biến là khặp hạn khuống - khặp bao xao thì ở Thanh Hóa nhiều nhất là loại khặp tự do, khặp yêu đu năm ne,... Đó là những điệu khặp ngọt ngào trên đường đi, trên nương rẫy, hay vắt ngang hai bờ núi. Nội dung trữ tình phản ánh quan niệm về lẽ sống, cách ứng xử, tình cảm đối với quê hương xứ sở, về những đức tính cơ bản của con người như: lòng nhân ái, sự vị tha, đức kính già, yêu trẻ được thể hiện trong cách ứng xử, trong quan hệ giữa các thành viên trong bản, trong mường; trở thành những giá trị truyền thống, được người Thái và tất cả mọi người dân, dù ở tộc người nào cũng thừa nhận, xem đó là những giá trị chuẩn mực trong quan hệ giữa người với người và với cộng đồng. Sau đây là một số làn điệu khặp của người Thái huyện Quan Sơn:
Khặp xư là làn điệu phổ thông nhất. “Khặp xư” có nghĩa là hát thơ nhưng nhạc điệu trong khặp xư đã có một vị trí cao hơn so với phần nhạc trong các thể ngâm thơ. Khặp xư gồm nhiều điệu khác nhau tuỳ theo nội dung của tác phẩm hay theo ngữ cảnh khi hát. Ví dụ:
Khặp chôm hươn mơ (hát thơ lên nhà mới). Chủ nhà hát xin với tổ tiên, các đấng siêu nhiên để lên nhà mới, đại ý: Nhà lành hay là dữ. Nếu là dữ thì hãy lành ngay, nếu nhà lành thì ta sẽ lên ở. Lên ở để sinh sôi nảy nở, để khoẻ mạnh sống lâu. Các cụ ông, cụ bà, tổ tiên; các ngài thổ công, thổ địa hãy chấp thuận và phù hộ cho gia đình bình yên. Sau đó chủ nhà mới bước lên nhà.
Khặp chôm ái, chôm nọng là điệu hát ứng tác hay hát gọi. Nó được sử dụng trong các dịp gặp gỡ, khi giã gạo, trong vòng xoè tập thể, trong tiệc tùng, đôi khi còn dùng trong cả nghi lễ... Nhạc điệu của khặp chôm ai, chôm nọng cũng gần giống khặp xư (vui, trong sáng) nhưng có cấu trúc: mở đầu mỗi khổ hát có đoạn “ai đu” (đoạn mở đầu), tiếp sau là hát ngân nga từ 1 đến 3 câu và kết thúc mỗi khổ hát lại có đoạn “au hang” (đoạn nhạc đóng). Người hát hát hết một khổ, tập thể sẽ hát nhắc lại đoạn “au hang” để hưởng ứng gọi là “xướng”, sau đó người hát mới hát sang khổ tiếp theo.
Khặp pàn láu, pàn kháu (hát trong mâm rượu, mâm cơm). Hát trong mâm cơm cũng có nhiều loại, mục này chỉ nói đến điệu hát đối đáp thông thường như: thăm hỏi, khen chủ hiếu khách... Một số nội dung khác cũng hát trên mâm cơm nhưng sẽ hát theo điệu khác như: khặp bao xao, khặp tón pợ...
Khặp tón pợ (hát đón dâu) gia đình nhà trai, sau những lời “khặp” chào hỏi sẽ “khặp” xin đón dâu, lời hát khiêm nhường và có thể kéo dài suốt ngày đêm. Mỗi bên thường tìm cho mình người tài giỏi để đối đáp. 
Khặp bao xáo (hát trai gái giao duyên) là điệu khặp đặc biệt nhất của khặp Thái. Loại khặp này được dùng trong các dịp gặp gỡ giao duyên, lễ hội, ngày tết, đám cưới xa. Điệu khặp còn được xem như thay cho lời muốn nói, khi vui người ta cũng khặp, lúc buồn người ta cũng khặp; khi khặp người ta thường kết hợp với pì khúi (sáo dọc); giọng khặp trầm bổng cùng với điệu pì ngân nga tạo nên một thứ âm thanh tha thiết. Khặp bao xáo thường chỉ dành cho trai gái giao lưu, gặp gỡ để tìm hiểu, giãi bày, tỏ tình, đôi khi để kể lể, than vãn với nhau khi gặp phải những khổ đau, oan trái, chia ly. Vì vậy, khặp bao xáo trở nên đa dạng, độc đáo, được giới trẻ yêu thích nhất. Khặp bao xáo cũng có nhiều làn điệu, tùy nội dung, hoàn cảnh, sự việc cần tâm sự, tỏ bày cùng bạn tình mà vận dụng.
Khặp ứt ư (à ơi) lực nói là điệu hát ru. Đây cũng là làn điệu có nhiều bài khác nhau nhưng khi hát phải đúng bài bản, không được thay đổi cả âm điệu và nhịp điệu. Khi hát người ta có thể co hoặc thả dây nôi cho dài hay ngắn để có nhịp hát nhanh hay chậm.
Khặp ồi thường được những người trung tuổi, người già khặp chúc tụng nhau trong các dịp cầm vía, mừng nhà mới, đám cưới... 
Khặp Thái ở Thanh Hóa thường được mở đầu bằng câu “Yêu đu năm ne... ót ơi, lá ơi...!”, ý của câu hát là: Thương yêu lắm út ơi...! Khặp Thái từ lâu trở thành nét sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người Thái. Trong dòng sông cuộc sống đang trôi chảy hàng ngày, hàng mùa, hàng năm, trong những cuộc vui, ngày lễ,... các làn điệu khặp như một món ăn tinh thần hòa vào trong đó, thể hiện đời sống văn hóa phong phú của người Thái.
d. Truyện thơ 
Nguồn truyện thơ của người Thái khá phong phú. Tất cả các truyện thơ Thái đều được người Thái ở các vùng biết đến và lưu truyền trong dân gian. Truyện thơ Thái được diễn xướng trong sinh hoạt văn nghệ dân gian bằng hình thức hát - kể. Tuy nhiên, do quá trình hình thành mà có những truyện thơ được lưu truyền phổ biến ở vùng này nhưng lại nhạt ở vùng khác. Các tác phẩm: Tiễn dặn người yêu, Khun Lù - Nàng Úa, Khăm Panh,... là những truyện thơ đặc sắc của người Thái. Truyện thơ Tiễn dặn người yêu được công bố sớm nhất là vào năm 1957, lưu truyền phổ biến ở vùng Tây Bắc. Truyện thơ Khăm Panh được công bố vào năm 1973. Hình tượng nhân vật Khăm Panh và nàng Mứn có nhiều chi tiết gắn với thực tế xã hội, lịch sử của vùng mường Khoòng (huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Ở Quan Sơn truyện thơ phổ biến là Tư Mã Hai Đào.
Truyện Tư Mã Hai Đào gắn liền với lịch sử vùng đất mường Xia của huyện Quan Sơn. Văn bản truyện thơ Tư Mã Hai Đào phổ biến ở vùng Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát; hiện đã được sưu tầm và biên dịch nhưng chưa được xuất bản( ). Trong cuốn địa chí này, xin được giới thiệu truyện Tư Mã Hai Đào như một đóng góp riêng của văn học dân gian Thái trên vùng đất Quan Sơn vào kho tàng văn học dân gian Thái, trong đó có thể loại truyện thơ. Đây được xem như một bước khởi đầu cho những nghiên cứu, tìm hiểu tiếp theo về truyện thơ này.
Mường Xia( ) là vùng cao biên giới Thanh Hóa, cách trung tâm huyện Quan Sơn khoảng 38km về phía tây, trước đây thuộc mường Chu Sàn bao gồm các mường như sau: mường Sại( ), mường Mò( ), mường Chự( ), mường Tuồng( ), mường Khằng( ), mường Khiết( ), mường Ly, Pùng Xim, mường Chanh( ), mường Na Hàm( ), mường Mìn, mường Cha( ). Ngoài ra, còn có hai mường kết chạ là mường Bén và mường Sôi( ). 
Lịch sử hình thành và phát triển của mường Xia gắn liền với tên tuổi của Tư Mã Hai Đào. Theo tài liệu dịch từ sách cổ của người Thái (dịch từ chữ Thái) và lời kể của các vị cao niên, truyện thơ được tóm lược như sau:
Hai Đào là người ở mường Đào - mường Khô xưa (nay thuộc huyện Bá Thước). Ngay từ nhỏ, Hai Đào đã nổi tiếng thông minh, nhanh nhẹn, có những phẩm chất hơn người như võ thuật, múa kiếm, chơi đu, chơi cù rất giỏi. Lớn lên có dáng người cao lớn, tướng mạo phi phàm và tinh thông võ nghệ.
Quê quán ông ở đất Điền Lư
Lúc còn nhỏ chăn trâu nuôi miệng
Áo rách, lưng trần nhiều bữa nhịn ăn
Xin vào làm đầy tớ lang Khô
Siêng học mót, biết ít nhiều văn võ
Lại thông minh, hoạt bát, đáng yêu
Lúc lên kinh tạo cũng cho theo
Vua trông thấy cho hỏi han căn vặn
Giữ lại kinh học văn võ, thành tài
Phong cho ngài thành Tư Mã, Nghè Nam( ).
Hai Đào trở thành phò mã. Tên gọi Tư Mã Hai Đào của chàng có từ đấy. Từ một kẻ nghèo, mồ côi ở chốn núi rừng xa xăm nay trở thành phò mã, lại được vua truyền cho thầy giỏi dạy học, chẳng bao lâu Hai Đào nổi tiếng là một bậc văn võ song toàn, chàng nguyện đem hết tài năng của mình phục vụ giang sơn, đất nước. 
Chính vào lúc này, vùng biên giới nước ta bị giặc ngoại xâm rình rập, đánh cướp liên miên, cuộc sống của nhân dân vô cùng khốn khổ. Trước họa xâm lăng, phò mã Hai Đào lập tức xin phép vua cha cho được cầm quân diệt giặc, giữ yên vùng biên giới. Vua đồng ý sắc phong Hai Đào làm Tướng quân, cấp quân lương, vũ khí, voi, ngựa đầy đủ cho chàng tiến quân. 
Hai Đào vui mừng trở về triệu tập thêm binh mường, rèn luyện vũ khí, chọn ngày tốt xuất quân lên biên giới để trấn ải biên cương (vùng Tén Tằn, Mường Lát ngày nay). Đoàn quân của Hai Đào đánh thắng nhiều trận giòn giã. Đánh trận đầu giặc đã thua lớn, đánh hai trận giặc càng thua đau. Thừa thắng quân ta đuổi lũ giặc ra khỏi biên cương. Để cứu nguy, quân giặc liền mang ra cái coọng thần - một loại nhạc cụ giống như cái chiêng, chờ quân ta xông trận chúng đánh coọng làm quân sĩ bủn rủn chân tay, đầu óc quay cuồng. Trước tình thế đó, Hai Đào liền phái hai tướng có võ nghệ tinh thông đột nhập vào đồn giặc dùng mưu kế đánh tráo coọng thần. Bằng sự mưu trí, gan dạ và dũng cảm, hai tướng Ót Đanh, Ót Đọ (hai tướng giỏi trong quân của Hai Đào cũng là hai anh em ruột) đã lấy được coọng thần của giặc mang về doanh trại. Hôm sau, Hai Đào lại dẫn quân xông lên đánh giặc. Lũ giặc cậy có coọng thần nên vẫn ung dung chờ quân ta lên gần đến nơi mới đem coọng thần ra đánh, nhưng do đã bị đánh tráo nên coọng thần không còn phát huy tác dụng, chúng thua chạy tan tác. Quân giặc xin đầu hàng, rút lui về đồi Phân Mao - núi phân chia ranh giới, mãi mãi không quay lại nữa. 
 Đất nước từ đó trở lại thanh bình, Hai Đào ban thưởng cho Ót Đọ về làm đạo mường Chanh, Ót Đanh về làm đạo Pùng, Xim, Lý, Lát và đặt tên cho bản người Thái nơi phát lệnh đánh coọng thần thắng giặc là bản Chiềng Cồng. Tư Mã Hai Đào được vua phong tước Tư mã Biên phòng. Trong thời gian trấn ải biên cương, Hai Đào đã qua lại nhiều lần trên đất mường Xia, thấy cảnh đẹp hữu tình, đất đai trù phù nên ông đã chọn mường Xia làm thủ phủ. Ông cũng xin nhà vua cho lập Chu Sàn. Từ đó mường Xia lại tấp nập, cư dân bỏ mường ra đi nay lại kéo nhau về ngày càng đông hơn, số hộ di cư sang mường Bén, mường Sôi (nước Lào) sinh sống cũng lần lượt quay về. Mường Xia lại sầm uất hơn xưa. 
Vua giao cho ngài trở lại biên cương
Coi giữ đất giáp hai bên Lào - Việt
Ót Đọ cho quản đất mường Chanh
Ót Đanh đất Pùng, Xim, Lý, Lát
Ngài Tư Mã đóng ở Chiềng Cồng, Xốp Xim, Tén Tằn đất rộng
Ngài dựng đồn bên cạnh bờ sông
Ngài dời đến ở cạnh mường này gây dựng mường Chu
Mở ra mường Chu Sàn từ khi ấy!
Khi về già, ông mất tại mường Xia. Người dân mường Xia an táng ông tại một trong những hang động của núi Pha Dùa. Cũng từ đó, người dân mường Xia thường gọi ông là thần Tư Mã ở Pha Dùa. Tuy nhiên, hang động nào được an táng Hai Đào đến nay vẫn còn là điều bí ẩn. Tại Tén Tằn, bà con cũng lập đền thờ để thờ vọng Hai Đào tại rừng cây Mát, bên bờ suối Xim và thượng nguồn sông Mã. Nơi đây được gọi là đền thờ Tén Tằn.
Như vậy, xét trên nhiều phương diện, truyện thơ Tư Mã Hai Đào có thể ra đời trên cơ sở một thực tế xã hội - lịch sử, là hiện tượng văn hóa phản ánh những vấn đề về lịch sử - xã hội của người Thái ở Thanh Hóa trên một vùng đất cụ thể. Và trong tâm thức dân gian, Tư Mã Hai Đào là vị thần thiêng, người có công diệt trừ quân xâm lược nơi biên giới và khi đất nước thanh bình lại cai quản yên lành cửa ải biên cương, giữ mãi cho mường Xia vía yên, vía khỏe. 
Ngoài truyện thơ Tư Mã Hai Đào, người Thái ở Quan Sơn còn có truyện tình Pha Dùa, được coi là “đặc sản” trong truyện thơ ở Quan Sơn. Tương truyền rằng, xưa kia có đôi trai gái tài sắc yêu nhau tha thiết. Cô gái là nàng Lá Nọi - con gái của một nhà lang đạo mường Mìn giàu có nổi tiếng khắp vùng mường Xia, mường Mìn (Quan Sơn, Thanh Hóa). Chàng trai dòng dõi con nhà quan (tạo) đạo mường Xia, nhưng gia đình khốn khó, không tương xứng với ông tạo mường Mìn gia thất đề huề, kẻ hầu người hạ, giàu sang phú quý.
Mối tình của họ không được cha mẹ cô gái chấp nhận. Cha cô gái quyết gả cô cho một nhà tạo giàu sang làm rể. Không chấp nhận hôn nhân không có tình yêu, bất chấp sự ngăn cấm của cha mẹ, anh em họ hàng, đôi trai tài gái sắc vẫn yêu nhau tha thiết, thề nguyền mãi mãi bên nhau. Trai gái thương nhau không rời nhau được.
Ta cắt ngón trỏ uống hết nhựa đời
Cắt ngón giữa đặt máng uống máu
Về mường Vun, mường trên thành ma xứ lạ
Vào ở dưới gầm trời thành ma rừng sâu
Bắc thang sắt mường trời xuống đón
Kéo thanh đồng mường Vun thả xuống lấy bạn
Ta sẽ chết biến vào núi đá sương giăng tứ mùa 
Về ở núi Pha Dùa thành thần hai bên(1).
Đúng ngày “Ông mường Mìn ngăn con, liền dùng gia phép ép cho con lấy kẻ giàu sang”, hai người đã thực hiện: 
Quyết làm như hai đứa đã thề...
Viết thư để lại, đề bên vạt áo
Rồi hai người ngã xuống, hồn lìa thân
Vào Pha Dùa để biến thành thần
Vào Pha Dùa thành “chuống” linh thiêng
Đón rước mọi người sum họp vây quanh
Ai đến đó hồn không trở lại
Chuyện khởi đầu Pha Dùa từ đó.
Ngày ấy, dân hai mường thấy mây trắng vờn quanh mây hồng bay cuồn cuộn dâng cao trên ngang đỉnh Pha Dùa, họ thấy vầng sáng tỏa ra lời ca (Ing lá ơi, Chài hặc ơi!) nghe tiếng ca hát yêu đu tha thiết hòa quyện nhau trên đỉnh mây mờ, tiếng khặp vang lên từ xa xăm đến ro rõ, da diết, về sau chỉ còn nghe tiếng vi vu khi qua hang Dùa, núi họa núi, núi họa tiếng rập rình của sông, ngân râm ran họa nhau không dứt, như tiếng lòng của đôi trai gái thầm thì yêu nhau. Để trai Chu Sàn mường Xia - mường Mìn chơi cát, tắm sông, vào hang vui xuân cũng từ ngày đó.
Chuyện tình mường Dùa không chỉ là câu chuyện bi ai của đôi trai tài gái sắc mà thông qua câu chuyện người đọc còn thấy hiện lên phong cảnh núi non hùng vĩ, thơ mộng của mường Xia, mường Mìn nơi miền biên ải. Người Thái đã vẽ lên bức tranh núi rừng tươi đẹp như một thành phố lộng lẫy, có đường cái quan, có cầu bắc ngang lèn đá, có hoa thơm cỏ lạ ngút ngàn:
Giờ đây nói đến Pha Hen,
Bên Pha Dùa nên bạn
Đôi chúng mình cách giữa cầu quan,
Bắc qua sông, qua đường cái lớn;
Dân khắp miền xuôi ngược chui qua.
Ta cùng bước tới Pha Hen,
Đi trên thềm đá hoa đá xếp,
Chân bước tới cùng chiềng Dùa,
Đường mường Dùa rộng hơn ba sại,
Trên đường nện bao dấu chân voi ngựa,
Voi ngà, ngựa vằn, ngựa tía,
Hàng ngàn rồng quý bay về tìm hồn lạc.
Ta cùng bước tới gò cao ngắm bản,
Ta cùng bước lên gò rộng ngắm ruộng nương,
Nghiêng tay nâng che nắng mặt trời,
Ta thấy mường Dùa luồn trong sương,
Sáng lấp lánh hào quang mường người,
Nhìn thấy hàng ngàn nhà ngói, mái tranh ẩn hiện.
Trong mường ta nghe tiếng ca, tiếng khặp,
Tiếng hát văn, ngâm thơ, ca cẩm,
Tiếng thơ giục giã mời anh lấy em,
Ta thấy bao chàng trai,
Bao cô gái đến bên mường,
Mến yêu mường không rời nửa bước.
Trai nghe nói mường Dùa,
Thì xách đồ chạy tới.
Gái nghe nói mường Dùa,
Xách túi hoa chạy theo.
Người còn sống theo nên thần khằm văng,
Hồn phách tự về với chiềng Dùa.
Người Thái Quan Sơn đã xây dựng nên một mường Dùa sầm uất, giàu có, lâu đài nguy nga tráng lệ, người bán buôn tấp nập. 
Mường Dùa đẹp tiếng vọng bay xa,
Mường Dùa sang tiếng vang khắp chốn,
Đĩa vàng khắc hình rồng phượng,
Nhiều hoa thơm lắm trái,
Tự tay chọn quả,
Lá trầu xanh to bằng lá vả,
Trầu núi thơm, lắm ngọn cay,
Lắm mía đen lóng to, lóng nhỏ,
Ngọt đượm tình đi dễ khó về,
Nhiều cau non vừa bổ đôi ba,
Lắm me xanh,
Nê, na chín ngọt,
Chuối ngự, chuối tiêu,
Chín thơm cả buồng.
Hoa quả thơm ở mường em,
Mía đen mắt
Ta trồng từng luống,
Cây mía đường ta trồng hàng đôi,
Trước sân sau nhà đón gió.
Dây trầu thơm cuốn cây cau lá tía,
Hương vị trầu càng đậm vị ngọt cay.
Có trường đua ngựa hí vang,
Nhiều tú mã song phi nước đại.
Ở trường đua người, ngựa sẵn sàng
Ta thấy chợ búa bán hàng,
Chợ hoa, chợ bánh, chợ dừa,
Đường trong chợ lắm ngả chia giao.
Mường Dùa là trung tâm của cả vùng, khắp nơi từ mường Thanh, mường Lào (nước Lào) đến Nghệ An và các vùng dưới xuôi “sông Mã, bể muối” cũng phải đến chầu lạy: 
Nơi cửa sáu họ đặt cờ liễu
Nơi cửa năm họ đặt cờ vàng
Trong khu vực có quân quan đến ở
Trong phủ lắm nhà ngói liền hàng
Có các quan đến chầu tấp nập
Ngài cống hiến nhiều hơn thiên hạ
Phía trên từ Thanh, Lò về chầu việc
Phía sông Mã đến ngã ba Bông
Bên sông Đà lấy Pha Luông mường Mạ
Cạnh bên tay trái thẳng đến Nghệ An
Phần phật lắm cờ hồng phấp phới
Người ngập sông đầy bến, đầy bờ
Phía bên trong có chợ bán cau
Hai bờ sông người ở bán cá
Pha Hen cho bắc cầu nhịp đá
Pha Cáu là đất thín mường Dùa.
Có thể nói truyện tình Pha Dùa là bài ca, ca ngợi tình yêu trong sáng, thủy chung của người Thái ở Quan Sơn nói riêng, người Thái ở Thanh Hóa, Việt Nam nói chung. Một tình yêu không phân biệt giàu sang hay nghèo khó, đến với nhau bằng tấm lòng son sắt, sống chết có nhau. Ngoài ra, truyện tình Pha Dùa còn cho chúng ta thấy một không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn, tươi đẹp của núi rừng vùng biên ải Quan Sơn.
6.1.5.6. Âm nhạc dân gian
Người Thái vốn có một đời sống văn hóa tinh thần phong phú, trong đó các hoạt động âm nhạc dân gian có thể xem là một trong các hoạt động tiêu biểu và được biểu hiện sinh động, cụ thể qua các loại nhạc cụ truyền thống. Người Thái ở Quan Sơn cũng sử dụng các loại nhạc cụ truyền thống của người Thái ở Thanh Hóa, tuy mức độ đậm nhạt, tần suất sử dụng các loại có thể có nét khác nhau giữa các vùng Thái. Nhìn chung, có thể chia các loại nhạc cụ của người Thái Thanh Hóa thành hai nhóm chính, đó là bộ hơi và bộ gõ( ).
a. Bộ nhạc cụ hơi
Khèn bè (Ken pe)( )
Về hình dáng, sở dĩ người Thái gọi nhạc cụ này là ken pe bởi hình dáng của nó trông giống như một cái bè, gồm những ống pao xếp sát nhau. Chiều dài các ống pao vào khoảng từ 80 - 100cm. Phần ngọn của khèn được xếp chéo theo độ dài giảm dần của các ống pao; phần gốc khèn được cắt gọt bằng phẳng, vuông vắn. Để giữ cho các ống pao chắc chắn, phần thân khèn thường được buộc chặt bằng dây mây; đoạn thân cây múc khà được tỉa tót rất đẹp có hình như quả bầu dài.
Khèn bè được làm từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau:
-    Cây pao: là một loài cây họ nứa nhưng thân nhỏ, thành rất mỏng, đốt dài khoảng 20 - 25cm. Loài cây này hầu như không có cành, khi vào rừng chặt, người ta thường chỉ việc chặt gốc và phát ngọn. Tuy nhiên, phải chọn những cây già để khi phơi nắng cây không bị héo và khi chế tạo âm thanh sẽ chuẩn hơn. Đặc biệt, muốn chế tạo chiếc khèn bè chỉ dùng được duy nhất loại cây này; còn vầu, nứa thì thân to, thành dày, khi chế tạo âm thanh không chuẩn. Song ống pao có nhược điểm là dễ vỡ, dễ gãy. Vì vậy, khi chế tạo khèn đòi hỏi sự khéo léo và cẩn trọng.
    - Cây múc khà: là một loại cây thân mềm, lõi không đặc. Người ta phải lựa chọn những khúc cây thẳng, kích thước to hơn cán dao và phải là loại già. Sau đó dùng dao đẽo thành khúc dài khoảng 20 - 25cm, đem phơi khô rồi sử dụng. 
    - Thanh đồng hoặc bạc: dùng để chế tạo lưỡi khèn.
    - Vỏ hến hoặc trai: nghiền thành bột để làm chất kết dính.
    - Sừng trâu: gọt thành thanh nhỏ, hình chữ nhật, tiếng Thái gọi là “na tắng”.
    - Sáp ong đen (khí sút): dùng để làm chất kết dính.
    - Dây mây (sái vái): dùng để buộc giữ cho khèn chắc chắn.
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những loại nguyên liệu trên, người ta phải làm theo trình tự các bước chủ yếu sau:
 Bước 1: Chặt những thân pao thành từng đoạn, hơ lửa nắn thẳng đem phơi khô rồi lấy dao thật sắc gọt tỉa thành từng cặp. Thông thường một chiếc khèn có 14 ống pao tạo thành 7 cặp. Cặp dài nhất khoảng 100cm, ngắn nhất khoảng 70cm. Tiếp theo phải dùi những lỗ tạo âm ở khoảng giữa và hai đầu ống pao để tra lưỡi đồng hoặc bạc. Có duy nhất một ống pao không dùi lỗ, vì ống này chỉ đưa vào cho đủ cặp.
Bước 2: Khi đoạn thân múc khà đã được phơi khô, sẽ gọt đẽo sao cho bề ngoài thon gọn, hình dáng của nó trông giống như một quả bầu dài. Sau đó, phải đục lỗ trên đoạn múc khà để sắp xếp những ống pao. Lỗ đục thường có hình chữ nhật, đủ rộng và dài để xếp 7 cặp ống pao vào. Người ta phải dùi một lỗ thông theo lõi của cây múc khà để tạo lỗ thổi, thông với tất cả những lỗ được dùi trên ống pao và lỗ đục ở đoạn cây múc khà.
Bước 3: Tra những lưỡi đồng hoặc bạc vào lỗ tạo âm, rồi tra lưỡi đồng na tắng vào vị trí. Sau đó lấy sáp ong làm chất kết dính gắn kết các bộ phận lại với nhau. Thông thường, lưỡi của chiếc khèn bè được người Thái chế tác bằng đồng. Bạc hiếm và đắt hơn chỉ được sử dụng trong những trường hợp đặc biệt.
Bước 4: Giã nhỏ vỏ hến hoặc vỏ trai trộn với sáp ong bịt kín các lỗ hở giữa ống pao và đoạn thân cây múc khà (nhưng phải để hở các lỗ nhỏ ở đoạn giữa ống pao để tạo và truyền âm).
Cuối cùng, dùng dây mây buộc ken các ống pao cho chặt khít với nhau.
Chế tạo khèn bè việc khó nhất là tạo âm sao cho chuẩn. Muốn âm chuẩn người ta phải chọn được những ống pao thật thẳng, già và mỏng. Trong quá trình thử âm, nếu cây nào không hợp lập tức loại bỏ ra. Âm thanh phải theo tuần tự “lăm một”, “lăm sóng”, “lăm sám” (theo 1, theo 2, theo 3)... Các cặp ống phải hợp âm với nhau. Chất lượng âm thanh của khèn còn phụ thuộc vào các lưỡi đồng, chúng phải thật mỏng và dẻo. Ngoài ra, việc đục, dùi tạo lỗ cũng cần vừa phải, lỗ rộng quá âm sẽ tù, người thổi lấy hơi rất khó; nếu lỗ nhỏ quá âm sẽ rè, người thổi hít hơi có cảm giác bị tắc. Vì vậy, không phải ai cũng có thể chế tạo được nhạc cụ này. Muốn chế tác được nhạc cụ này phải là người có vốn hiểu biết về âm nhạc, có đôi tai thẩm âm tốt, thuộc các làn điệu dân ca Thái, như các điệu khặp, điệu xường... ngoài ra còn cần sự cẩn trọng và khéo léo.
Khèn bè là loại nhạc cụ có kết cấu khá phức tạp, cách thổi cũng khó nên đòi hỏi sự khổ luyện và hoàn thiện từng bước của người chơi. Người Thái có câu “Ken sịp si, pi sịp soóng” tức là “khèn có 14 điệu, sáo có 12 điệu”. Để thể hiện được hết 14 điệu khèn là cả một quá trình học hỏi và khổ luyện nhiều năm. 
Cụ Phạm Bá Quan ở bản Bo, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn cho biết, trong 14 điệu khèn cổ truyền, hiện nay chỉ còn phổ biến 12 điệu, đó là:
- Điệu “Lóng khổng” (Dạo sân): Điệu này chủ yếu được dùng để thể hiện tình cảm nam nữ. Không phân biệt lứa tuổi, già trẻ, miễn là có tình cảm với nhau thì có thể sử dụng điệu khèn này để thể hiện tâm sự của mình. 
-    Điệu “Sối tớ và sối nứa” (Sối dưới và sối trên): Hai điệu khèn này thường dùng cho những người cao tuổi, âm điệu chậm rãi, thong thả.
-    Điệu “Tặt tọi”: Điệu này cũng thường được thổi trong dịp hát giao duyên nam nữ. Các chàng trai thường thổi điệu này vào ban đêm để thể hiện tình cảm của mình với người mình thầm yêu.
-    Điệu “Long ét”: Chủ yếu là ca ngợi nặm Ét (sông Ét), nhạc điệu êm đềm, du dương.
-    Điệu “Lăm phuôn so kháu”: Điệu xin lúa, xin thóc.
-    Điệu “Me hạng bang mia”: Có nghĩa là điệu ông góa, bà góa.
-    Điệu “Manh giang”: Một làn điệu buồn da diết, thường chỉ được thể hiện trong lúc có tâm sự.
-    Điệu “Lăm tặt” (điệp khúc): Đây là làn điệu có tiết tấu nhanh, phổ biến nhất ở nhóm người Thái ở Lào.
-    Điệu “Phòn se”(nhạc đệm): Điệu này thường được thể hiện để làm nhạc nền cho những điệu múa trong các lễ hội.
-    Điệu “Loóng má”: Điệu này giai điệu có tiết tấu nhanh, thường được thổi phụ họa cho các điệu khặp.
-    Điệu “Lăm Săm Nưa” (điệp khúc): Điệu này cũng phổ biến ở bộ phận người Thái ở tỉnh Sầm Nưa (Lào).
Khèn bè là loại nhạc cụ có thể độc tấu hay làm nhạc đệm cho các làn điệu khặp. Vì vậy, nó có nhiều không gian thể hiện như trong các lễ hội cũng như trong cuộc sống thường ngày. Trong các lễ hội “Kin chiêng boóc may”, “Chá chiêng” hay trong các ngày lễ tết, cưới xin,... khèn bè thường được sử dụng làm nhạc đệm cho các điệu khặp, như khặp “Con mương” (hát mời vào mường, bản), khặp “Mơi láu” (hát mời rượu), khặp “To de” (hát đối đáp)...
Một bài khặp có thể kéo dài 30 phút hoặc lâu hơn, thậm chí kéo dài thâu đêm. Những lúc này người thổi khèn phải điêu luyện, phải thuộc các làn điệu; các động tác phải uyển chuyển, dẻo dai, âm thanh lúc trầm lúc bổng tạo nên cảm giác mê say đối với người thưởng thức. Trong những cuộc vui, ban tổ chức thường phân vai ra để khặp, có thể khặp vây quanh chĩnh rượu cần, hoặc khặp quanh mâm cơm, mâm rượu... Trong mỗi dịp lễ hội, người Thái thường sử dụng nhiều loại nhạc cụ như: cồng chiêng, khua lóng, khèn bè... 
Khèn bè cũng luôn là người bạn thân thiết với người Thái trong cuộc sống hàng ngày. Những lúc thảnh thơi, khi nghỉ ngơi trên nương rẫy,... người Thái thường mang khèn ra thổi. Chiếc khèn lúc này đem lại tinh thần phấn khởi, làm vơi bớt mệt nhọc cho con người tin yêu hơn với cuộc sống. Đặc biệt, đối với những chàng trai, cô gái Thái đang yêu, chiếc khèn trở thành cầu nối giúp họ thể hiện tình cảm với nhau. Những lúc này chàng trai thường thể hiện tài năng, tình cảm của mình qua giai điệu “Lộng không”.
Tóm lại, trong số những nhạc cụ truyền thống của người Thái Thanh Hóa thì khèn bè là loại nhạc cụ độc đáo và phức tạp nhất. Mức độ phức tạp của nó không dừng lại ở khâu chế tạo mà còn thể hiện ở cách chơi, cách thể hiện tình cảm, trạng thái tâm lý... Âm thanh của khèn bè Thái trầm bổng biến hóa rất khéo léo tùy theo cảm hứng của nhạc công và theo tiết tấu người hát. Chính sự linh hoạt như vậy nên nó rất được ưa chuộng. 
Sáo ôi (Pi khui)
Về nguyên liệu, pi khui được làm từ nứa, vầu hay thân pao nhưng phổ biến nhất là nứa và pao, vì những loại cây này ống dài, thân mỏng, kích cỡ vừa phải. Người ta chọn cây già, cắt lấy hai ống, ống đầu tiên chỉ lấy khoảng 1/4 đốt, ống thứ hai thì lấy cả đốt đem về phơi khô.
Về chế tạo, đầu tiên người ta phải lấy dao sắc tiện bằng hai đầu ống, phần phía gốc được tính từ lỗ thổi đến mắt dài khoảng 8cm. Tại điểm mắt, dùi một lỗ thông giữa hai ống, lỗ này không quá rộng chỉ đủ để tạo hơi thông nhau giữa hai ống; ngay chỗ này người ta sẽ lấy lá chuối thắt lại chỉ để hở khe nhỏ để tạo âm; lúc thổi nếu người chơi thấy âm chưa như ý thì có thể điều chỉnh âm ở chỗ lá chuối thắt này. Bước tiếp theo là dùi các lỗ tạo thanh, thông thường một cây pi khui có 4 hoặc 6 lỗ, nhưng phổ biến nhất là 4 lỗ. 4 lỗ này tạo thành một đường thẳng so với lỗ thông nhau ở điểm mắt, lỗ đầu tiên được dùi cách điểm mắt 5 “khiêu” (khiêu có kích thước bằng chu vi của chính ống nứa tạo cây pi khui đó). Những lỗ tiếp theo cách lỗ đầu tiên một khiêu. Phần đuôi pi khui, tính từ lỗ thứ 4 thường có chiều dài 3 khiêu.
Về cách thổi, pi khui được thổi ở tư thế hướng về phía trước người thổi, đầu ngọn hơi chếch xuống đất, đầu gốc, nơi có lỗ thổi, hướng lên miệng người thổi. Người thổi có thể điều chỉnh âm thanh trầm bổng, du dương ở chỗ thắt lá chuối, đồng thời đóng mở 4 lỗ để điều chỉnh âm thanh theo bản nhạc hay theo cảm hứng của mình.
Về không gian thể hiện, pi khui có âm hưởng chủ đạo là thiết tha, tình cảm nên thường được thổi vào ban đêm. Sau một ngày làm việc vất vả trên nương rẫy, khi màn đêm buông xuống các chàng trai lại háo hức đợi đến giờ hẹn với người thương. Khi bước xuống cầu thang đi đến điểm hẹn, các chàng trai không quên giắt bên người chiếc pi khui. Đến nơi, chàng dùng pi khui thổi điệu “Khụn sao” (Thức gái). Tiếng sáo réo rắt, mời gọi. Cô gái đang ngồi bên khung cửi hay bên bếp lửa, nghe tiếng pi khui không thể cầm lòng, theo tiếng pi khui bước xuống sàn đến chỗ hẹn với bạn tình để cùng tâm tình, nghe tiếng sáo du dương của người yêu.
Pi khui còn là nhạc cụ để mọi người thư giãn sau mỗi ngày làm việc. Lúc này người thổi không chỉ là những chàng trai mà có thể là những người đàn ông cao tuổi hay là một cậu bé còn ít tuổi, họ có thể theo cảm hứng mà thổi các bản nhạc, như “Úi mộc sang” hay “Manh giang”. Pi khui có thể được thổi cả ban ngày lẫn ban đêm nhưng thường là về đêm, vì ban đêm là lúc rảnh rỗi nhất, yên tĩnh nhất làm cho tiếng sáo trở nên thanh trong và tình cảm hơn.
Cụ Hà Văn Hiêm, bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa cho biết pi khui thường có 5 điệu sau:
-    Điệu “Chuôn sao, chuôn bao” (Rủ gái, rủ trai) thường được các chàng trai, cô gái thổi khi đi chơi vào ban đêm.
-    Điệu “Khụn sao” (Thức gái) dành cho các chàng trai đang bước vào tuổi yêu. Các chàng trai dùng tiếng “pi” của mình để “đánh thức tình cảm” cô gái ở trên nhà sàn. Nghe tiếng pi cô gái biết ngay là người thương đang gọi và nhanh chóng bước xuống sàn đến với người thổi sáo.
-    Điệu “Úi mộc sang” là điệu sáo của người mường Mộc, mường Sang (Mộc Châu, Sơn La).
-    Điệu “Manh giang” cũng giống như điệu “Manh giang” của khèn bè, điệu manh giang của pi khui cũng có âm hưởng buồn, tha thiết. Để thể hiện điệu này cần có hai ống pi khui, một ống mẹ, một ống con. Đặc biệt, pi khui thể hiện điệu này phải có 6 lỗ.
-    Điệu “Ma hao” (Chó sủa) là một điệu nhạc vui, tiết tấu như tiếng chó sủa.
Nhìn chung, pi khui là loại nhạc cụ đơn giản không cầu kỳ, cách chế tạo và thể hiện loại nhạc cụ này cũng không phức tạp. Vì vậy, đối tượng sử dụng pi khui rộng hơn khèn bè. Nhạc điệu của pi khui thiết tha, tình cảm, nó đặc biệt được các chàng trai Thái xưa ưa chuộng.
Sáo cho bà một (Pi một)
Pi một có hình dáng và kết cấu gần giống như pi khui, nhưng âm điệu và cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau.
Về hình dáng, pi một là một ống nứa, hoặc ống pao, dài khoảng 40 - 50cm. Gọi là ống nhưng thực tế khi chế tạo nhạc cụ này người nghệ nhân phải lấy cả phần mắt của một đốt cây nứa hoặc cây pao (tính từ phía gốc).
Người ta thường chọn cây già, bằng ngón tay cái người lớn mang về phơi khô hoặc để trên gác bếp. Ngoài ra, họ cũng phải chuẩn bị lưỡi đồng hoặc bạc để tra vào lỗ thổi.
Về cách chế tác, ống nứa sau khi được chọn và khơi khô sẽ được nghệ nhân gọt tỉa cho đẹp mắt, phần gốc (lấy cả mắt ống) dùng dao sắc tỉa cho thon, gọn; phần ngọn (không lấy mắt) phải gọt, tiện sao cho miệng ống bằng phẳng. Sau đó, nghệ nhân sẽ lấy dao sắc tạo một lỗ tại điểm mắt của ống, lỗ này phải vừa để tra lưỡi đồng. Người ta thường lấy sáp ong đen làm chất kết đính giữa lưỡi đồng và thành pi. Tiếp theo sáo được dùi các lỗ tạo âm. Thông thường chiếc pi một có 8 lỗ, 7 lỗ trên và 1 lỗ dưới. Cách dùi lỗ tạo nhạc điệu của pi một cũng giống như cách tạo lỗ của pi khui, lỗ đầu tiên cách lỗ thổi khoảng 15cm. Lỗ này khá đặc biệt vì nó được bọc bởi một lớp “xia” (lớp giấy rất mỏng, người Thái thường sử dụng lớp xia bằng lá tướng quân). Các lỗ tiếp theo cũng cách nhau một khiêu, lỗ phía dưới đối diện với lỗ thứ 7. Ở phần cuối (thường cách lỗ thứ 7 hai khiêu). Người ta còn tạo một lỗ nữa gọi là “hu cáy”, nghĩa là lỗ xa. Chức năng của lỗ này là điều chỉnh âm thanh trầm, bổng, vang xa...
Nhìn bề ngoài pi một không khác pi khui mấy, tuy nhiên âm điệu, tiết tấu và mục đích sử dựng của pi một phức tạp hơn pi khui khá nhiều. Pi một là loại nhạc cụ sử dụng trong các sự kiện tâm linh, tín ngưỡng nên nó chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần người Thái. Do đó, những người trẻ tuổi ít biết thổi nhạc cụ này. Và, khi chế tạo pi một đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế và am hiểu nhất định các điệu nhạc cũng như phong tục tập quán của người nghệ nhân.
Về không gian thể hiện, nhạc cụ này chủ yếu được sử dụng trong các sự kiện tâm linh nên không gian chủ yếu của nó là các dịp “sên” (cúng), cụ thể như sên bản, sên mường (cúng bản, cúng mường, cầu cho bản mường yên vui, cuộc sống ấm no, hạnh phúc); sên hườn (cúng cầu gia đình bình an, làm ăn phát đạt, không bị bệnh tật). Pi một được thổi làm nhạc nền cho lời cầu cúng trong lễ chá chiêng,...
Cụ Phạm Bá Quan (xã Na Mèo, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa) cho biết, pi một thường được thể hiện trong những không gian sau:
- Thổi trong lễ “sên”. Trong lễ này, ông mo, bà một sẽ đọc bài cúng của mình đồng thời có một nghệ nhân ngồi cạnh thổi đệm pi một theo sau, tạo nhạc nền cho bài cúng đó.
- Thổi khi “phi một tư” (ma một nhập vào bà một). Trong quá trình lễ, bà một sẽ bị ma “một” nhập vào. Lúc này phải thổi nhạc theo đúng trạng thái biểu hiện của bà “một”. Hình thức ma nhập này giống với cách lên đồng của người Kinh. Thổi pi một trong trường hợp này rất khó vì tiếng sáo phải lột tả được diễn biến sự việc, có cả những đoạn hội thoại với bà “một” nên rất khó thể hiện.
- Thổi khi điệu “Cheo hưa” (Chèo thuyền)
- Thổi khi điệu “Lá oi”. Điệu này thường được thổi trong lễ chá chiêng.
- Thổi khi điệu “Phai láu”. Điệu này phải thổi theo từng chương, từng điệp khúc. Đây là một điệu khó, thổi rất tốn sức, nếu nghệ nhân không am hiểu và điêu luyện sẽ không thể hiện được điệu này.
Nhìn chung, pi một là một nhạc cụ tương đối phức tạp về nhạc điệu, khi sử dụng nhạc cụ này đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ thực sự. Hơn thế nữa, mục đích sử dụng cũng đặc biệt nên pi một không được dùng phổ biến hàng ngày. Tuy nhiên, nó luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Thái.
Khèn thổi trong đám ma (Pié - ken la)
Pié - ken la là loại nhạc cụ chuyên dùng trong đám ma, chức năng giống như kèn đám ma của người Kinh. Âm thanh của nó phát ra rất sầu não. Người ta thường thổi pié - ken la kết hợp với trống và chiêng.
Về hình dáng bên ngoài, pié - ken la trông giống như một cái loa nhưng nhỏ, thon và dài hơn.
Về chất liệu: Phần chính của nhạc cụ này được làm ra từ một đoạn thân cây múc khà hoặc cây có lõi rỗng, nhẹ và bền, thuận tiện khi khoét lõi, dài khoảng 20 - 30 cm, có đường kính vừa phải; ngoài ra còn sử dụng một ống sắt hoặc đồng để lắp vào phần đuôi. Người ta tìm chọn những chiếc kén sâu (sâu ở cây dâu, hay cây co há, một loại cây cũng thuộc họ dâu, ở trong rừng) để lắp vào ống thổi.
Cách chế tạo: Trước tiên, lấy dao sắc gọt tỉa cho gọn, hình dáng như cái loa, phần đầu phải gọt thật nhỏ, thon, đủ để tra kén sâu vào, đây cũng chính là lỗ thổi. Sau đó, tiếp tục lấy đục đục rỗng phần lõi khúc cây múc khà sao cho thành vừa đủ mỏng, phần đuôi tạo gờ đế giữa ống sắt hoặc đồng. Tiếp theo, là công đoạn tra kén sâu vào đầu ống đã tạo. Sở dĩ lấy kén của con sâu ở cây dâu hay co há trong rừng là vì đây là loại kén không gây ngứa, dai, có hình dáng như cái loa, phù hợp với cấu tạo của chiếc kèn. Công đoạn cuối cùng là đục các lỗ tạo âm, được tiến hành tương tụ như pi một, có 7 lỗ trên và 1 lỗ dưới.
Pié là nhạc cụ chuyên dùng trong đám ma, thường kết hợp với trống, chiêng làm nhạc đệm cho bài mo của thầy cúng tiễn đưa linh hồn người chết về với mường then (mường trời). Về giai điệu, pié hầu như không có điệu nào được đặt tên cụ thể. Nó chỉ kết hợp với bài trống “Cóng vai”, “Cóng phương” trong bài trống tiễn đưa linh hồn của người chết.
Khèn môi (Tơn)
So với các nhạc cụ kể trên, tơn là loại nhạc cụ ít phổ biến nhất hiện nay. Ở các bản của người Thái ở Thanh Hóa, nhạc cụ này chỉ còn rất ít. Hình dáng của tơn trông giống như lưỡi của khèn bè, nhưng dài và to hơn (dài khoảng 10 -15 cm). Nguyên liệu để làm nhạc cụ này là một miếng đồng hoặc bạc nhưng phổ biến là đồng vì bạc hiếm và đắt. Cách chế tạo nhạc cụ này khá đơn giản, chỉ cần cắt miếng đồng thành lát mỏng, lấy dũa dũa thật nhẵn và mỏng. Về cách chơi, người sử dụng chỉ cần đưa tơn lên miệng vừa thổi vừa gẩy.
Không gian thể hiện tơn chủ yếu trong những ngày lễ chá chiêng. Tơn thường được biểu diễn kết hợp với pi một tạo thành âm thanh đặc trưng của ngày chá chiêng.
b. Bộ nhạc cụ gõ
Trống, chiêng, khua lóng
Trống, chiêng là loại nhạc cụ truyền thống không chỉ có ở người Thái mà còn ở nhiều dân tộc khác trên đất nước ta. Đối với người Thái nói chung và người Thái Thanh Hóa nói riêng, trống, chiêng là một “đặc sản” âm nhạc trong sinh hoạt văn hóa tinh thần. Xét về hình dáng, cách chế tạo và cách thể hiện, trống, chiêng của người Thái ở Thanh Hóa có những nét đặc trưng riêng, so với trống, chiêng của người Thái nói chung.
Về hình dáng, trống, chiêng của người Thái cơ bản giống với trống, chiêng của các dân tộc khác, gần gũi nhất là người Mường; chiêng thì hầu như không khác gì, trống thì dáng thon và nhỏ hơn.
Để chế tác trống, đầu tiên phải chọn được gỗ tốt. Thông thường, người Thái hay dùng gỗ mít làm tang trống vì nó nhẹ, dễ khoét lõi. Tiếp đến cần phải có da bò và cuối cùng là các thanh tre vót nhọn để làm đinh găm da bò vào mép trống.
Về cách chế tạo, sau khi tìm được gỗ tốt, cắt thành khúc dài khoảng 1m, họ lấy rìu đẽo cho thật nhẵn mặt ngoài. Sau đó, dùng dùi và dao nạo, đục rỗng lòng khúc gỗ. Tiếp theo, phải đục các lỗ nhỏ ở rìa mặt trống (để sau lấy đinh tre găm da bò vào thành trống) rồi đem phơi khô. Da bò cũng phải phơi khô. Khi các nguyên liệu đã được chuẩn bị xong, người nghệ nhân bắt đầu đóng chặt và căng da bò bịt kín hai đầu khúc gỗ tạo thành hai mặt trống. Trong quá trình đó, người nghệ nhân thường xuyên thử âm thanh của trống. Nếu âm thanh chưa đạt thì tiếp tục kéo căng mặt trống đến lúc có được âm thanh như ý mới thôi. Các nghệ nhân còn có thể tô điểm cho trống bằng cách khắc hoa văn lên tang trống.
Hiện nay, do có sự du nhập của kỹ thuật chế tạo trống từ các nơi khác đến nên việc làm trống ở người Thái Thanh Hóa không bó hẹp trong cách làm truyền thống. Bởi vậy, trống có thể to hơn và tang trống được chế tạo bằng cách lắp ghép các mảnh gỗ lại với nhau rồi lấy dây cột chặt. Người ta cũng có thể sử dụng cả da trâu để làm mặt trống.
Về không gian sử dụng, nếu so sánh về mức độ phổ biến và tần suất xuất hiện của trống, chiêng so với các nhạc cụ khác như pi khui, pi một, khèn bè... trong đời sống văn hóa tinh thần của người Thái thì trống, chiêng có tần số xuất hiện nhiều hơn. Trống, chiêng có mặt trong hầu hết các sự kiện trong đời sống đồng bào Thái, nhất là trống. Cụ thể, trống được dùng trong lễ hội, trong cưới xin và tang ma. Trống còn là âm thanh tập hợp mọi người trong bản mường; trống báo hiệu cho người dân tất cả các chuyện vui, buồn...
Trong đám cưới của người Thái, tiếng trống, chiêng trở thành “linh hồn” của buổi lễ. Mỗi khi trống, chiêng vang điệu “cóng ram” mọi người dù ở xa hay ở gần đều biết là có đám hỉ. Âm thanh như thôi thúc lòng người, tạo ra tâm lý hổ hởi, phấn chấn, nhất là đối với các chàng trai cô gái. Trong lễ cưới, người Thái hay đánh điệu “cóng ram”. Cóng ram thường có ba hình thức thể hiện: “ti sặp sóng”, “ti sặp sám” và “ti sặp si” (đánh theo hai, theo ba, theo bốn)... Với lối đánh chậm rãi, lúc trầm lúc bổng, nghệ nhân vừa đánh vừa nhảy uốn người theo nhịp trống, chiêng. Thường thì một trai một gái cùng thể hiện, trai đánh trống, gái đánh chiêng. Tiếng trống, chiêng khiến cho người nghe ở ngoài cảm thấy xao xuyến, thổn thức... Âm thanh ấy hòa cùng những câu khặp tạo ra âm hưởng rất đặc biệt, đằm thắm hương sắc Thái. Tiếng trống, chiêng kết hợp với “quánh lóng” (khua lóng) còn gọi là “quánh lóng cóng ram” lại có tiết tấu và âm thanh khác hẳn với tiếng “cóng dàm” khi chơi một mình. Trong đám cưới, sự kết hợp này thường diễn ra khi đón cô dâu về nhà chồng, nó không chỉ biểu thị sự hân hoan vui mừng của nhà trai mà còn biểu thị sự hiếu khách của nhà trai đối với nhà gái. Khi cơm rượu xong, mọi người bước vào phần giao lưu vui vẻ thì chơi điệu “sặp sanh”. Đây là lối đánh có tiết tấu nhanh, vui nhộn, lôi cuốn mọi người cùng ca hát, nhảy múa... Cuộc vui cứ thế diễn ra thâu đêm suốt sáng.
Trong các lễ hội, người Thái cũng hay sử dụng nhạc điệu cóng dàm kết hợp với khua lóng. Hai loại nhạc cụ này tạo ra âm thanh liên hồi, người tham gia lễ hội cảm giác có lúc thúc giục, lúc sâu lắng rất đặc biệt, khi đã tham gia rồi không muốn cất bước chân đi. Trong lễ hội, thường diễn ra các trò chơi như trô sang (đánh cù), sun mạy (đẩy gậy), khin sái (kéo co)... Những trò này được tiếng trống, chiêng, khua luống cổ động rất náo nhiệt.
Khua lóng (quánh lóng) vốn dĩ ban đầu không phải là một nhạc cụ. Lóng vốn chỉ được dùng để giã gạo. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của đời sống, đặc biệt với lối sống lạc quan, yêu đời, yêu văn hóa văn nghệ, người Thái đã sử dụng nó như một nhạc cụ làm phong phú thêm đời sống tinh thần của mình. Nếu nhìn rộng ra, bên cạnh người Thái, người Mường, một tộc người anh em cộng cư gần gũi với người Thái, cũng có nhạc cụ này. Nói về lịch sử ra đời, cho đến nay vẫn chưa khẳng định được dân tộc nào sáng tạo và sử dụng lóng như một nhạc cụ trước. Chỉ biết rằng, các tộc người Thái, Mường sử dụng lóng như một nhạc cụ đặc trưng của dân tộc mình.
Về hình dáng, lóng trông giống như một chiếc thuyền độc mộc, nhưng cấu tạo lại hoàn toàn khác. Một cái lóng có thể dài từ 2 - 3m, một đầu được tạo như hình mũi thuyền, đầu kia được đẽo tạo một gờ có lỗ để cột chặt lóng với một khúc gỗ khác đã chôn xuống đất. Ở đoạn giữa lóng được khoét lòng dài khoảng 2m.
Về vật liệu chế tạo, do mục đích sử dụng để giã gạo nên người Thái phải chọn những cây gỗ dẻo, chịu được lực, có tiếng vang khi chày giã xuống như cây sú, sâng, mang... Kích thước cây gỗ làm lóng phải to hơn một vòng tay người lớn mới đủ. Khi vào rừng đốn gỗ người ta dùng rìu, dao cắt ra thành từng khúc dài từ 3 - 4m sau đó mới chuyển về nhà. Chày để giã cũng được làm bằng những loại gỗ cứng, thẳng, vừa tay cầm, dài khoảng 2m, không quá nặng để khi giã đỡ mất sức (thường là phụ nữ sử dụng).
Về cách làm, công đoạn đầu tiên là lấy rìu vạc hết vỏ và một phần thân để tạo cho lóng thành hình chiếc thuyền. Tại điểm trung tâm của mũi lóng người ta đục một lỗ nhỏ có kính thước bằng chiếc cối gia đình, để giã những nguyên vật liệu nhỏ. Ở phần thân, khoét một lỗ rộng có chiều dài hơn 1m, miệng loe, phần đáy thì thu nhỏ dần. Thành của lỗ này phải mài nhẵn để khi vớt gạo, kê... ra không bị xước tay. Phần đuôi dùng rìu tạo gờ để cột chặt lóng với một cột trụ chôn xuống đất. Cột này cũng làm từ một khúc gỗ cứng. Người làm lóng sẽ tạo một cái mâu ở đầu trên để cài gờ lóng vào cho chắc. Chày được bạt cho phẳng hai đầu để khi giã đầu chày tiếp xúc đều vào trong lóng, ở đoạn giữa của chày sẽ tỉa một gờ nhỏ làm tay cầm khi giã gạo.
Sau khi làm xong, lóng chỉ được sử dụng để giã gạo, giã kê, sắn... vì lúc này gỗ đang còn tươi, khi gõ âm thanh phát ra không rõ. Chỉ đến khi gỗ khô, lóng mới được coi là một nhạc cụ. Lúc này khi gõ vào thành lóng âm vang xa hơn và trong hơn lúc trước.
Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, việc tiếp xúc hàng ngày với nông cụ này đã làm người Thái nhận ra rằng, ngoài chức năng giã gạo phục vụ bữa ăn nó còn có thể góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần bằng các nhạc điệu, tiết tấu vui nhộn. Có thể nói, việc sử dụng lóng như một nhạc cụ là một sáng tạo đặc sắc của dân tộc Thái nói chung và người Thái Thanh Hóa nói riêng.
Lóng là nhạc cụ được sử dụng khá rộng rãi trong cuộc sống, sinh hoạt của người Thái. Nó thường kết hợp với trống, chiêng để chơi “quánh lóng cóng ram”, là âm thanh chủ đạo trong các ngày lễ hội như: lễ hội chá chiêng, ngày tết, ngày hội mường, bản, lễ cưới... Khi khua luống thường có từ 6 - 8 người cùng chơi. Trong 6 hoặc 8 người này sẽ phân ra đảm nhận các vai trò khác nhau, trong đó có một người ệt mé (làm mẹ), 6 người hoặc 4 người ệt lúc (làm con), một người làm tải (giữ nhịp). Quánh lóng có hai điệu chính, điệu một là “Phặt phưm”, cách gõ của điệu này thực hiện một lần đẩy chày vào thành bên và ba lần gõ thành bên người đứng gõ; điệu hai là “Lóng xúm” thực hiện hai lần đẩy vào thành bên và một lần gõ vào thành bên người đứng gõ, điệu này còn thực hiện thêm động tác tót cay (chọi gà) bằng cách gõ hai chày vào nhau. Ngoài ra, trong đám cưới còn có thêm các điệu “Lóng tón khách”, “Lóng tùng”; trong lễ hội mừng mùa có “Lóng sóng”, “Lóng sám”, “Lóng pặc xác”... Quánh lóng là kiểu chơi nhạc cụ tập thể, những người tham gia phải thực sự tâm đầu ý hợp, phải luyện tập qua nhiều ngày. Đa số người chơi loại nhạc cụ này là phụ nữ. Trong quá trình thể hiện các điệu của quánh lóng, người đảm nhận vai trò làm mẹ là người vất vả nhất. Vị trí đứng của người này là ở giữa, phải gõ liên tục và là người giữ nhịp, giữ tiết tấu cho cả dàn nhạc, 4 hoặc 6 người giữ vai trò làm con phải theo mẹ mà bắt nhịp, động tác phải thanh thoát đồng đều. Người làm tải gõ sau cùng với chức năng giữ nhịp và phụ âm. Quánh lóng, cóng ram là một “đặc sản” trong đời sống tinh thần của người Thái. Sự kết hợp của hai nhạc cụ này tạo ra một chuỗi âm thanh trầm bổng, có lúc đọng lại có lúc lại vang xa. Khi được thưởng thức người nghe sẽ có cảm giác rộn ràng, xốn xang khó quên. Âm thanh này không thể lẫn với âm thanh của các nhạc cụ khác. Có thể nói đây là nét đặc sắc của nghệ thuật trình tấu nhạc gõ của người Thái Thanh Hóa.
Tóm lại, trống, chiêng, khua lóng là một nét đặc trưng của văn hóa Thái. Trống, chiêng của người Thái ở mường Mìn đủ bộ là 1 trống, 4 chiêng, trống là đặc trưng cho núi rừng, chiêng là tượng trưng cho 4 mùa xuân, hạ, thu, đông, lóng là tượng trưng cho sông nước. Khi nhạc trống, chiêng, khua lóng vang lên quyện với nhau là tượng trưng cho linh hồn sông núi thôi thúc lòng người phấn khởi vươn lên trong cuộc sống hàng ngày. Nhạc trống, chiêng, khua lóng thường được dùng trong các ngày vui, lễ hội và liên hoan văn nghệ truyền thống dân tộc. Riêng trống và chiêng còn được dùng trong đám tang nhưng chỉ có 1 trống và 1 chiêng với các làn điệu như: trống chầu, trống mời ăn, trống nhạc buồn, trống cho người khóc, trống hề, trống tiễn người chết, trống tiễn linh hồn người chết lên trời... Hiện nay, các đám vui như cưới, lễ hội ít sử dụng các nhạc cụ truyền thống như trống, chiêng, khua lóng, đa phần dùng các nhạc điệu hiện đại như loa, đài..., riêng các đám hiếu vẫn giữ truyền thống như xưa.( )
Gõ ống (Bóng bu) 
Tiếng Thái gọi loại nhạc cụ này là tắng bóng bu hoặc tắng bu. Bóng bu được chế từ gốc nứa, vầu, ngọn tre, luồng, có đường kính khoảng 5 - 7cm (vừa một nắm tay), dài khoảng 45 - 50 cm. Người ta chơi loại nhạc cụ này bằng cách gõ xuống tấm ván và hai ống gõ vào nhau hòa nhịp với khua lóng và cồng, chiêng.
Hiện nay, cùng với các loại nhạc cụ khác như khua lóng, cồng, chiêng, bóng bu được sử dụng phổ biến vào những dịp lễ hội của thôn bản, lễ khai trương làng văn hóa, xã văn hóa, trong đám cưới...
6.2. DÂN TỘC KINH
6.2.1. Vài nét về lịch sử cư trú của người Kinh ở Quan Sơn
Trong lịch sử, người Kinh và người Mường có chung nguồn gốc tổ tiên là người Việt cổ. Song do những biến động lịch sử, cư dân Việt cổ đã tự chia tách thành hai bộ phận Kinh và Mường. Quá trình phân tách ấy bắt đầu từ cuối thời kỳ Bắc thuộc. Chính vì vậy, ngôn ngữ của hai dân tộc này có nhiều điểm gần gũi rất dễ nhận thấy.
Xét từ mối quan hệ cội nguồn đó, có thể trên vùng đất Quan Sơn, người Kinh cũng có mặt từ rất sớm. Trong diễn trình lịch sử, việc nhập cư, chuyển cư của người Kinh từ các địa phương ở Bắc Bộ, Trung Bộ và một số huyện của tỉnh Thanh Hóa đến vùng đất Quan Sơn diễn ra trong các thời kỳ khác nhau đã dần dần tạo nên sự hội tụ khá đông đảo người Kinh trên vùng đất Quan Sơn. 
Giai đoạn trước năm 1960, đa số người Kinh ở Quan Sơn chủ yếu là những cán bộ, công nhân, bộ đội lên công tác, làm việc rồi lấy vợ người Thái, người Mường ở Quan Sơn và nhập khẩu, cư trú tại Quan Sơn.
Những lần nhập cư đông của người Kinh diễn ra chủ yếu theo chính sách phát triển kinh tế miền núi của Đảng và Chính phủ. Năm 1960, theo chủ trương của tỉnh đưa nhân dân miền xuôi lên làm kinh tế mới, định canh, định cư lâu dài ở các huyện miền núi, Quan Sơn đã tiếp nhận 210 hộ người Kinh lên định cư.
Đến thời điểm năm 1997, số người Kinh lên công tác, buôn bán, làm ăn nhập khẩu vào huyện Quan Sơn càng nhiều hơn. Không chỉ người Kinh ở các huyện miền xuôi trong tỉnh mà còn ở Nghệ An, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng cũng đến Quan Sơn làm ăn cư trú lâu dài. Những năm gần đây, do giao thông phát triển, điều kiện làm ăn sinh sống có nhiều thuận lợi hơn, dân số người Kinh tăng cơ học rất nhanh trên địa bàn huyện Quan Sơn. Trước năm 1997, người Kinh ở Quan Sơn chưa đến 1%, nhưng đến cuối năm 2015, người Kinh ở Quan Sơn đã chiếm 9,1% dân số toàn huyện. Người Kinh ở Quan Sơn có các dòng họ: Nguyễn, Lê, Trịnh, Trần, Đỗ, Vũ, Đặng, Mai, Bùi,... trong đó, họ Nguyễn, Lê, Trịnh, Trần, Mai chiếm đa số.
Địa bàn cư trú của người Kinh ở Quan Sơn thường là dọc tuyến đường 217, nơi đông dân cư như km: 19; 22; 25; 34; 35; 42; 54; 61; 79; 88 và ở các tuyến đường vành đai biên giới, liên xã, các thị trấn, thị tứ, trung tâm các xã, ngã ba đường cái, các bản đông dân cư có đường ô tô đi lại để thuận tiện cho việc buôn bán, giao lưu. Hiện nay, người Kinh có mặt ở hầu khắp các xã, thị trấn trong huyện, nhưng tập trung nhiều ở các xã: Trung Xuân, Trung Hạ, Trung Tiến, Trung Thượng, thị trấn Quan Sơn, Sơn Hà, Sơn Lư, Tam Lư, Tam Thanh, Sơn Điện, Mường Mìn, Na Mèo.
6.2.2. Vai trò của tộc người Kinh trên vùng đất Quan Sơn
Sự có mặt của người Kinh trong diễn trình lịch sử của vùng đất Quan Sơn đã tạo ra một bước chuyển biến mới đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở địa phương trên nhiều phương diện, đặc biệt là lối làm ăn, tư duy kinh tế nhanh nhạy, năng động thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và khả năng điều hành các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và phục vụ đời sống hàng ngày. Trong số người Kinh có mặt trên đất Quan Sơn phải kể đến một lực lượng cán bộ, giáo viên, cán bộ y tế, bộ đội biên phòng và một số ngành khác xuất phát từ lòng nhiệt huyết, tình thương mến yêu con trẻ đã lên vùng đất Quan Sơn bám bản, dựng trường lớp, góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho Quan Sơn, chăm lo sức khỏe cho đồng bào các dân tộc và giữ vững ổn định quốc phòng - an ninh nơi biên cương. Lực lượng này đã trở thành nguồn cung cấp cán bộ cho huyện cũng như tỉnh. Người Kinh lên Quan Sơn sinh sống lập nghiệp cũng đem theo những kinh nghiệm sản xuất, cách thức làm ăn để người dân miền núi cùng vận dụng. Kinh nghiệm thâm canh trong sản xuất nông nghiệp được người Kinh truyền thụ, chia sẻ với bà con các dân tộc. Các nghề truyền thống của đồng bào dân tộc có từ xa xưa là dệt thổ cẩm, thêu, đan lát,... Người Kinh làm đa dạng hóa các nghề bằng việc góp thêm các nghề mới như: mộc, chế biến nông sản, hải sản,... Đồng bào dân tộc Kinh lên Quan Sơn sinh sống đã thúc đẩy sự phát triển hàng hóa, kinh tế thị trường. Người dân tộc ở vùng miền núi nói chung trước đây chưa quen với sản xuất hàng hóa, chủ yếu sản xuất của bà con theo lối tự túc, tự cấp, cần gì thì sản xuất cái ấy chứ không có nhu cầu sản xuất ra để bán. Tập quán lâu đời quen sống dựa vào khai thác tự nhiên không tạo được những bước đột phá trong phát triển kinh tế. 
Người Kinh đến từ các huyện miền xuôi trong tỉnh và nhiều người ở tỉnh ngoài (chủ yếu là Bắc Bộ) đã mang đến nhiều nét văn hóa của các vùng miền góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần và vật chất cho nhân dân trong huyện. Đến vùng đất Quan Sơn, với nét nổi trội của văn hóa Thái, người Kinh đã góp phần vun đắp và hòa nhập hai truyền thống văn hóa vào ngôi nhà chung văn hóa Quan Sơn. Các gam màu văn hóa đa dạng vừa phong phú sắc thái vùng miền, vừa độc đáo sắc thái văn hóa các dân tộc anh em trên vùng đất Quan Sơn được thể hiện trong mọi sinh hoạt của đời sống thường ngày, nhất là trong các dịp lễ hội, ngày tết, văn nghệ quần chúng, liên hoan cấp làng, xã, huyện. 
Văn hóa của người Kinh ở Quan Sơn cơ bản giống văn hóa của người Kinh ở vùng đồng bằng Thanh Hóa. Trên vùng đất Quan Sơn, sự ảnh hưởng văn hóa của người Kinh trên địa bàn cũng phổ biến rộng rãi. Có những gia đình người Thái, Mường làm nhà xây gạch, cốt thép như người Kinh, nhất là khu vực thị trấn, thị tứ, ven quốc lộ 217. Dấu hiệu sâu đậm là những biểu hiện dùng hỗn hợp trong ngôn ngữ giao tiếp. Chẳng hạn, trong một câu nói của người Thái, người Mường thường dùng cả tiếng Thái, tiếng Kinh pha lẫn. Ví dụ: Một người Thái nói: “Mự nị ái pay hội” (Hôm nay bố đi họp) thì từ “hội” chính là từ của người Kinh (hội họp). Nếu dùng đúng từ của người Thái thì phải nói là “Mự ni ái pay xùm”, hoặc nói “Hến láu xớ chén” (Rót rượu vào chén), nếu nói đúng từ Thái phải nói là “Hến láu xớ choóc”, “choóc” tiếng Thái đồng nghĩa tiếng Kinh là “chén”.
Một số nét trong phong tục tập quán của người Kinh cũng được các dân tộc khác trên địa bàn học làm theo. Chẳng hạn, trước đây người Thái ăn Tết vào trung tuần tháng 3 âm lịch “kin chiêng bóc mạy” (ăn Tết mừng hoa nở), nay người Thái cũng ăn Tết theo năm âm lịch như người Kinh. Tập quán thờ thổ công, thổ địa của người Kinh cũng được một bộ phận người Mường, người Thái ở thị trấn, thị tứ làm theo. Tục cúng ngày mùng một, ngày rằm (ngày 15 âm lịch) hàng tháng của người Kinh, nay nhiều gia đình người Thái, nhất là các hộ làm kinh doanh cũng học người Kinh.
Do cùng sinh sống làm ăn nên bà con người Kinh cũng như người Thái, người Mường, người Mông có điều kiện hiểu biết nhau hơn, tình cảm gắn bó keo sơn lâu dài đã tạo nên khối đoàn kết các dân tộc ngày càng bền vững. Có thể nói rằng, trong quá trình phát triển của lịch sử, trên vùng đất Quan Sơn, người Kinh đã xây dựng được mối quan hệ đoàn kết, gắn bó, thân thiện với các dân tộc anh em. Tình cảm ấy ngày càng được củng cố và nâng lên tầm cao mới thông qua quan hệ hôn nhân giữa các dân tộc Thái - Kinh - Mường. Nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Quan Sơn là người Kinh đã và đang đóng góp tâm sức xây dựng và phát triển quê hương trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
6.3. DÂN TỘC MƯỜNG
6.3.1. Vài nét về nguồn gốc và văn hóa người Mường huyện Quan Sơn
Dựa trên những kết quả của nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã có ý kiến rằng người Mường và người Kinh hiện nay vốn có chung tổ tiên là người Việt cổ. Sự phân tách thành hai tộc người mới diễn ra trong khoảng cuối thời kỳ Bắc thuộc. Bộ phận người Việt cổ sinh sống ở khu vực miền núi, ít chịu tác động bởi văn hóa phương Bắc, giữ được nhiều dấu ấn của văn hóa cổ truyền trong đời sống sản xuất, phong tục tập quán, tín ngưỡng,... trở thành tộc người Mường. Bộ phận người Việt cổ sinh sống ở vùng đồng bằng, đô thị chịu ách cai trị trực tiếp của ngoại bang, lại giao lưu với văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa,... trong diễn trình dài lâu của lịch sử nên đã biến đổi thành tộc người Kinh hiện nay.
Đồng bào Mường có tiếng nói riêng nhưng không có chữ viết. Tiếng Mường thuộc nhóm Việt Mường, ngành Môn - Khơ me, họ Nam Á. Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng, trong lịch sử đã có một thời kỳ ngôn ngữ tiền Việt Mường, sau đó phát triển thành ngôn ngữ Việt Mường chung. Đến khoảng thế kỷ IX, thế kỷ X thì ngôn ngữ Việt Mường chung có sự phân hóa thành hai ngôn ngữ gắn với hai khối cư dân. Khối cư dân sinh sống ở vùng núi, ít tiếp xúc với người Hán dẫn đến sự hình thành tiếng Mường. Khối cư dân sinh sống ở vùng đồng bằng, đô thị, tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ Hán và các ngôn ngữ khác trong khu vực Đông Nam Á dẫn đến sự hình thành tiếng Việt (Kinh). Cũng bởi vậy, giữa tiếng Việt và tiếng Mường có những nét gần gũi. Thời gian đã lùi xa, nhưng hiện nay tiếng Việt cổ vẫn được bảo lưu trong môi trường văn hóa Mường. Sự phân tách hai tộc người Việt - Mường trong lịch sử có thể nói một cách hình ảnh như hai cành sinh ra từ một gốc.
Người Mường cư trú trên một vùng đồi núi khá rộng, từ phía tây bắc của tỉnh Yên Bái đến phía bắc tỉnh Nghệ An, song dân cư tập trung đông nhất là ở tỉnh Hòa Bình và khu vực miền núi Thanh Hóa, thuộc địa bàn của các huyện Ngọc Lặc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh và một số ít ở các huyện Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát.
Người Mường ở Thanh Hóa có số dân đông thứ hai, sau tỉnh Hòa Bình. Về mặt cơ cấu hành chính, đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Mường trên địa bàn Thanh Hóa tổ chức thành các đơn vị hành chính truyền thống với khoảng 40 mường, do một số dòng họ lang đạo nối đời thống trị như: họ Hà 4 mường, họ Phạm Thúc và Phạm Văn 15 mường, họ Lê Xuân 4 mường, họ Trương Công 5 mường, họ Nguyễn Đình 7 mường, họ Quách 2 mường, họ Cao 1 mường. Những mường lớn có uy thế cả về kinh tế và chính trị là mường Đẹ ở Thạch Thành, mường Lân Ru ở Như Xuân, mường Khô ở Bá Thước, mường Rặc ở Ngọc Lặc, mường Chếnh ở Lang Chánh( ).
Về nguồn gốc người Mường ở Thanh Hóa, có ý kiến cho rằng người Mường ở Thanh Hóa được cấu thành từ ba nguồn chính, bao gồm: bộ phận thứ nhất là người Mường từ tỉnh Hòa Bình di cư vào, bộ phận thứ hai là người Thái, người Kinh hòa nhập thành người Mường; bộ phận thứ ba đáng chú ý là người Mường bản địa( ). 
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, bộ phận người Mường ở các vùng khác di cư vào Thanh Hóa cũng được xác định từ nhiều nguồn cứ liệu. Trong bài viết “Mường Bi, một trong những trung tâm xuất phát và quy tụ của người Mường”, nhà nghiên cứu Lâm Bá Nam( ) đã cung cấp những cứ liệu về việc một bộ phận lớn người Mường từ Hòa Bình di cư vào Thanh Hóa( ): Theo một số cụ già Mol Bi thì anh em của họ ở mường Bi không chỉ chạy vào Thanh Hóa mà còn chạy đi khắp nơi như Yên Bái, Nghĩa Lộ. Người Mol Bi ở Quan Hóa hầu hết là nông nô của lang đạo mường Bi ngày trước. Vào khoảng thế kỷ XVIII do mất mùa, đói kém, thuế nặng, dân ở đây nổi dậy chống lại rồi bỏ chạy lên Châu Mộc (Sơn La) làm ăn, chẳng bao lâu bị chúa đất ở đó truy đuổi, họ phải bỏ Châu Mộc chạy sang vùng Sầm Nưa (Thượng Lào), cuối cùng đoàn người theo dòng sông Mã xuôi về Quan Hóa cho tới tận ngày nay. 
Một bộ phận người Mường ở mường Bi bị lang đạo áp bức, bóc lột quá nặng nề nên đã dời bỏ quê hương đến nơi khác làm ăn sinh sống. Người Mol Bi còn lưu truyền lại một số câu chuyện xung quanh việc dời bỏ quê hương của mình. Người Mol Bi ở làng Giá thuộc xã Phú Xuân, huyện Quan Hóa còn nhớ, khi xưa, hồi còn sống ở vùng mường Bi, nhà lang chia trâu bò cho các gia đình trong mường bắt họ phải chăn dắt. Ngày lại ngày trôi đi, trâu bò sinh đẻ ngày một nhiều. Làng cũng không biết đàn trâu bò đã sinh sôi nảy nở được bao nhiêu. Khi dân có việc bèn lấy trâu bò trong số mới sinh sôi ra làm thịt, bọn lang đạo hay biết chuyện đó, chúng phạt vạ rất nặng. Vì không lo nổi việc phạt vạ, sợ bị chúng trừng phạt nên nhiều gia đình đã phải trốn đi. Khi sang được vùng đất mới, dân làng phải làm những cái mả giả để thờ cúng tổ tiên (vì đất thờ cúng cũ còn ở mường Bi). Từ đó họ đặt tên nơi mới đến là làng Giả. Giả (hoặc Giá) là tên một làng của người Mol Bi ở xã Phú Xuân, huyện Quan Hóa( ).
Một truyền thuyết khác lại cho biết, xưa kia tổ tiên của người Mol Bi ở mường Bi, vì lang đạo của họ gả con gái cho thổ ty ở vùng Quan Hóa nên tổ tiên của họ bị cắt cử đi theo để phục dịch bà nàng, một số anh chị em họ hàng chạy theo họ rồi an cư lập nghiệp ở đó( ). Một truyền thuyết khác cũng cho biết thổ ty bản Ken (xưa thuộc châu Quan Hóa, nay là bản Ken, xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa), vì không có con trai nối dõi đã nhận người con rể. Người rể vào cùng với gần 100 gia đình người Mường rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây.
Dòng họ Trương Công, Trương Văn có thế lực lớn ở Bá Thước còn đền thờ ông tổ của dòng họ ở làng Ấm xã Lương Nội. Theo truyền thuyết, ông tổ này quê ở Hòa Bình được Minh Mạng cử đi chỉ huy dân binh đánh giặc và được cử lên trấn ải miền Quang Chiểu (huyện Quan Hóa). Sau khi thắng trận, đoàn quân kéo về Bá Thước rồi định cư ở đó, dần dần phát triển dân số mới phân chia nhau đi cai quản các mường khác trong vùng.
Theo các cụ cao niên ở Quan Sơn kể lại thì phần lớn người Mường ở Quan Sơn từ mường Bi (Hòa Bình) di cư sang Quan Hóa rồi ngược sông Luồng lên mường Mìn, mường Xia cư trú, nay thuộc các xã Sơn Điện, Sơn Thủy, Na Mèo, một số ngược sông Lò lên cư trú ở Sơn Lư, Tam Lư, hoặc từ Sơn Điện di cư sang các xã khác cư trú.
Trong diễn trình lịch sử, vùng đất Quan Sơn cũng là nơi có con người cư trú rất sớm. Vùng đất này đã lưu giữ những chiếc trống đồng được xem như là những chứng tích của cư dân Việt cổ (Trống đồng Trung Hạ là chiếc trống đồng loại I, được xác định thuộc giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn). Theo nhà nghiên cứu Trịnh Sinh “muộn hơn và cũng là kế thừa dòng trống Đông Sơn là trống Mường (trống loại II Heger). Những chiếc trống này chất chứa bao bí ẩn của lịch sử đòi hỏi phải được giải mã. Xứ Thanh lại là nơi tập trung nhiều trống Mường ở ngay vùng người Mường đang sinh sống”( ). Tại Quan Sơn đã tìm thấy ba chiếc trống đồng mà theo phân loại của F. Heger là thuộc trống đồng loại II. Đó là trống đồng bản Bơn (xã Mường Mìn); trống Sơn Thủy, trống Tam Lư. “Trống Mường có vẻ đẹp riêng của nó, với những hoa văn được tạo ra bằng phương pháp in dập, nhất là hoa văn ô trám, đã biến mặt trống đồng như một bức thảm được thêu dệt hoa văn đẹp, lặp đi lặp lại như hoa văn trên các tấm thổ cẩm, tấm áo của đồng bào các dân tộc miền núi xứ Thanh còn lưu giữ. Trống Mường kể lại nhiều vấn đề về lịch sử tộc người, nhất là lịch sử người Mường, bộ phận vốn là một trong những thành phần cơ bản của người Việt cổ xưa”(1). 
Như vậy, khái quát từ một số nguồn dữ liệu và kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây, có thể thấy rằng nguồn gốc người Mường ở Quan Sơn nằm trong bối cảnh chung về nguồn gốc người Mường ở Thanh Hóa, bao gồm: một bộ phận di cư từ Hòa Bình vào, một bộ phận người Mường từ các huyện miền núi Thanh Hóa chuyển cư đến Quan Sơn mà nhiều nhất là từ Quan Hóa và không loại trừ khả năng là có một bộ phận bản địa đã có mặt trên vùng đất Quan Sơn từ lâu đời.
Người Mường ở Quan Sơn tập trung ở các bản Sủa, Na Phường, Na Hồ, Na Lộc, Tân Sơn thuộc xã Sơn Điện; các bản Hẹ, Hao, Bìn, Sỏi thuộc xã Sơn Lư, một số khác sống xen kẽ, rải rác ở các bản thuộc các xã trong huyện.
Người Mường ở Quan Sơn là một cộng đồng cư dân lâu đời, nhưng hiện tại số dân đứng thứ ba sau người Thái, người Kinh và chiếm 7,4% dân số của toàn huyện Quan Sơn. Bản sắc văn hóa truyền thống của người Mường ở Quan Sơn cơ bản giống như người Mường ở một số huyện của Thanh Hóa như Lang Chánh, Bá Thước, Ngọc Lặc. Do dân số ít lại cộng cư, xen kẽ lâu đời bên cạnh người Thái nên văn hóa của người Mường ở Quan Sơn cũng có nhiều nét hòa nhập với văn hóa của người Thái nơi đây: đa số người Mường nói và khặp Thái thông thạo; trang phục phụ nữ Mường (váy, áo khóm) cũng dệt và may mặc như phụ nữ Thái; nhà ở của người Mường gần giống như người Thái; các món ăn của người Thái được người Mường sử dụng hàng ngày; người Mường hiểu phong tục tập quán của người Thái, thậm chí một số ít người Mường dùng tiếng Thái giao tiếp hàng ngày.
6.3.2. Một số dòng họ của người Mường huyện Quan Sơn
Người Mường ở Quan Sơn có các dòng họ: Lương, Lộc, Len, Hà, Ngân, Phạm, Lục. Trong đó có hai dòng họ lớn là họ Lương và họ Hà.
Họ Lương của người Mường ở Quan Sơn chiếm 26% dân số người Mường trong huyện. Đây là dòng họ lớn nhất của dân tộc Mường ở huyện Quan Sơn. Là dòng họ có số dân đông nên họ Lương có mặt ở hầu khắp các bản có người Mường trong huyện, tập trung ở các bản: Sủa, Na Phường, Na Hồ, Tân Sơn xã Sơn Điện; các bản Hẹ, Bình, Sỏi, Hao, Bon xã Sơn Lư; bản Hát xã Tam Lư; bản Xuân Thành xã Sơn Thủy; bản Na Mèo xã Na Mèo; một số khác sống xen kẽ trong các bản của người Thái như bản Chiềng, Luốc Làu, Mìn, Yên xã Mường Mìn và một số bản ở xã khác. 
Họ Hà cũng là dòng họ lớn của người Mường ở Quan Sơn. Họ Hà tập trung ở ba bản: Sủa, Na Phường, Na Hồ. Tuy dân số không nhiều bằng họ Lương, nhưng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 dòng họ Hà là dòng họ lang đạo nhiều thế hệ làm tạo pọng, tạo bản. Người họ Hà tuy làm tạo nhưng rất siêng năng, cần cù lao động, lấy việc tự lao động sản xuất để nuôi sống mình, làm giàu chính đáng, nên được đồng bào các dân tộc quý trọng. Dân tộc Mường coi họ Hà là trụ cột của mình để noi gương trong lao động, xây dựng cuộc sống gia đình. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hà Văn Thụng (Tạo bản Sủa) đã ủng hộ kháng chiến 5.000kg thóc, 77kg thực phẩm, 40kg muối và vận động được nhiều thanh niên trai tráng dân tộc Mường đi bộ đội, du kích, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến phục vụ kháng chiến chống Pháp. Ông làm tạo bản nhưng sống gần gũi, hòa đồng, thương yêu dân lành, được nhân dân quý trọng, tin yêu. Đồng thời cá nhân ông và con cháu dòng họ tích cực tham gia kháng chiến, ủng hộ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Mức đóng góp của gia đình ông thời đó cho kháng chiến là mức cao nhất của xã Sơn Điện.
Họ Ngân của người Mường ở Quan Sơn tuy không lớn như dòng họ Lương, họ Hà nhưng cũng khá phổ biến ở các bản có người Mường của huyện Quan Sơn. Hiện nay, dòng họ Ngân của người Mường cư trú khá tập trung ở các bản Sủa, Na Phường, Na Hồ, Na Lộc xã Sơn Điện, một số khác sống xen kẽ trong các bản người Mường, người Thái trên địa bàn huyện.
Họ Lộc của người Mường ở Quan Sơn sống khá tập trung ở các bản Na Lộc, Na Hồ, Na Phường, Sủa, Tân Sơn xã Sơn Điện; bản Bìn, Hẹ, Hao xã Sơn Lư; bản Hát xã Tam Lư... Họ Len của người Mường ở các bản Na Lộc, Na Hồ, Na Phường, Sủa của xã Sơn Điện.
6.4. DÂN TỘC MÔNG
Người Mông di cư từ xã Pù Nhi, huyện Mường Lát đến vùng đất Quan Sơn vào cuối năm 1989. Vào thời điểm đó, người Mông ở Quan Sơn chỉ có 34 hộ, với gần 600 khẩu, cư trú ở 3 bản do đồng bào tự chọn là: Xia Nọi, Mùa Xuân, Ché Làu của xã Sơn Thủy cũ (mỗi bản hơn 10 hộ). Đến đầu năm 1990 ba bản này chính thức được thành lập.
Năm 1999, thực hiện Nghị định 65/NĐ-CP của Chính phủ, xã Sơn Thủy chia tách thành hai xã là Sơn Thủy và Na Mèo, bản Ché Làu thuộc về xã Na Mèo. Người Mông ở Quan Sơn hiện nay chiếm 2,3% dân số toàn huyện.
6.4.1. Vài nét về văn hóa vật chất
6.4.1.1. Kiến trúc nhà ở
Ngôi nhà truyền thống của người Mông ở Quan Sơn là loại nhà nền đất (nhà trệt) xuất hiện từ lâu đời, người Mông gọi là lú trế. Để dựng được một ngôi nhà, trước tiên phải tìm kiếm nguyên liệu, công việc này rất quan trọng vì nó liên quan đến tuổi thọ, quy mô cũng như hình dáng của mỗi ngôi nhà. Cũng như các tộc người khác ở Quan Sơn, người Mông đã biết tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên. Các loại gỗ mà người Mông ở đây thường sử dụng để làm khung nhà là: pơ mu, dổi và một số loại gỗ tạp. Kinh nghiệm sử dụng gỗ nhiều đời cho biết, để chống mối mọt thì phải sử dụng loại gỗ có dầu, chính vì vậy những bộ phận quan trọng trong ngôi nhà truyền thống của người Mông như mái (tru trế) và cột chính (dê trế) thường được làm bằng gỗ pơ mu (tông thư sua), những bộ phận khác còn lại trong bộ khung nhà thường được làm bằng gỗ dổi lõi xanh, lõi vàng vì đây là loại gỗ không bị mọt. Vách nhà thường được thưng bằng các loại gỗ tạp hoặc các loại gỗ tốt khác như dổi, nghiến, lát... Các gia đình chủ động chuẩn bị nguyên vật liệu để làm nhà, tuy nhiên tinh thần tương trợ về công sức và vật chất là rất quan trọng. Đây là truyền thống tốt đẹp lâu đời vẫn được người Mông gìn giữ và phát huy.
Dụng cụ làm nhà trước đây của người Mông rất đơn giản, chủ yếu là các công cụ thô sơ như rìu, dao, búa. Trước đây, đối với ngôi nhà truyền thống, để lắp ráp các bộ phận khung của ngôi nhà, người ta thường dùng lạt, dây mây rừng hoặc ngoãm tự nhiên. Hiện nay, ngôi nhà được dựng bằng những tốp thợ chuyên nghiệp và ngôi nhà trở nên chắc chắn hơn bởi khung nhà được liên kết bằng mộng là chủ yếu.
Kích thước của ngôi nhà được đo lường bằng sải tay, gang tay. Một ngôi nhà truyền thống của người Mông thường có kích cỡ trung bình có chiều dài khoảng 12 đến 14m, chiều rộng khoảng 7 đến 9m, cột chính (cột cái) của ngôi nhà thường không quá 4m. Đây cũng chính là chiều cao của ngôi nhà. Mái được lập trờm xuống thấp để che chắn sương mù sớm mai tràn vào nhà, do vậy nhìn bề ngoài ngôi nhà của người Mông rất thấp nhưng bên trong lại rộng rãi.
Người Mông ở Quan Sơn hiện nay vẫn còn giữ được không gian sinh hoạt truyền thống. Nhà người Mông được chia làm 3 gian. Đặc biệt, gian giữa thường thoáng rộng hơn hai gian bên cạnh. Cũng giống như quan niệm của người Kinh, gian giữa giữ vị trí trung tâm của ngôi nhà, nơi diễn ra các sinh hoạt chính của mỗi thành viên trong gia đình, là nơi đối ngoại, tiếp khách. Đặc biệt, gian giữa thờ cúng tổ tiên - ma nhà (đa xử ca) đối diện với cửa chính. Phần giữa gian giữa đến vách hậu là nơi thông thoáng thường không kê đặt bàn ghế cố định. Đây là nơi ăn cơm của nam giới, nơi tiếp cơm khách và cũng là không gian thiêng của gia đình vì đây là nơi diễn ra các nghi lễ thờ cúng của gia đình. Trên vách hậu của gian giữa là bàn thờ ma nhà. Những gia đình chủ nhà làm nghề thầy cúng và nghề bốc thuốc chữa bệnh thì có thêm bàn thờ ma thuốc và ma thầy cúng. Các bàn thờ của người Mông không giống như người Kinh và một số dân tộc khác, vì thế nếu người ngoài không tinh ý sẽ không nhận ra. Tuy gọi là bàn thờ nhưng đơn giản chỉ định vị bằng miếng giấy bản to bằng bàn tay có vết máu gà dán đè những chiếc lông cổ gà trên vách hậu gian giữa cao ngang tầm đầu người lớn.
Hai gian bên là buồng và bếp. Buồng ngủ không làm song song với bàn thờ mà thường bố trí nơi ngủ lui về phía cuối gian (sát vách tiền). Mỗi nhà được mở hai cửa, một cửa chính và một cửa phụ. Người nhà, nhất là phụ nữ đi lại hàng ngày chủ yếu qua cửa phụ.
Gian chủ nhà thường ở bên phải ngôi nhà, được chia làm ba phần: phần sát vách tiền là buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà; phần giữa là lối đi; phần tiếp theo là bếp lò, bếp nấu ăn, sát vách hậu để đồ dùng nấu nướng, nơi ăn uống của phụ nữ và trẻ nhỏ, cất giữ một số đồ sinh hoạt của gia đình. Cửa phụ của ngôi nhà được đặt ở giữa, cách đầu hồi bên phải thông với lối đi của gian này. Phía trên bếp là gác bếp dùng để cất giữ lương thực, hạt giống, hạt gia vị, thực phẩm, đồ đan lát và một số dụng cụ sản xuất.
Gian thứ ba, ở bên trái của ngôi nhà, cũng có thể gọi là gian khách. Ở giữa là nơi uống nước và tiếp khách (nhưng cũng có gia đình dành nơi uống nước và tiếp khác là khu vực giáp vách tiền bên phải gian khách cạnh cửa chính), phần sát vách tiền được ngăn lại kê giường ngủ cho khách, khu vực sát vách hậu ngăn lại thành các buồng ngủ cho các con. Tuy nhiên, khu vực khách và các con chủ nhà ngủ ở từng gia đình hiện nay có thể hoán đổi cho nhau, có gia đình khách ngủ ở khu vực vách tiền hoặc ngược lại.
Nhà của người Mông có một đặc điểm khác nữa là rất ít hoặc không có cửa sổ. Đặc điểm này bắt nguồn từ việc ứng xử khôn ngoan với điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi (vùng núi cao sương gió bất thường), cũng như tâm lý vốn rất kín đáo của người Mông. Bốn bức vách xung quanh nhà cũng như các buồng ngủ được làm từ ván gỗ được đẽo thủ công từ rìu, gần đây đã sử dụng bằng cưa nên tương đối phẳng phiu, nhìn đẹp mắt. Ngoài ra, nhà có hai chái ở hai bên đầu hồi có diện tích khá rộng, là nơi phơi váy áo, cất giữ công cụ sản xuất, gác tạm ngô, đỗ, các dụng cụ đựng và chế biến lương thực.
6.4.1.2. Trang phục
Người Mông ở Quan Sơn có nghề thủ công truyền thống đó là trồng lanh dệt vải. Phụ nữ Mông là người trực tiếp làm ra trang phục dân tộc. Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ Mông thường dành nhiều thời gian cho công việc này. Tập quán của người Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của phụ nữ qua khả năng thêu thùa, qua bộ y phục. Câu tục ngữ: “Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu; Gái xinh chưa biết cầm kim là hư”; hay “Muốn biết người tốt xem gác bếp; Muốn hay người đẹp xem quần áo” như là thước đo giá trị vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Mông.
Người Mông ở Quan Sơn có 2 nhóm (ngành): Mông Trắng và Mông Đen. So với bộ y phụ nam giới, bộ y phục cổ truyền của nữ giới người Mông khá đa dạng và cầu kỳ hơn nhiều.
Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ gồm váy, áo xẻ ngực có yếm lưng, tấm vải che váy phía trước, thắt lưng và vuông vải nhỏ che lưng đằng sau, khăn quấn đầu, xà cạp... Váy của phụ nữ Mông là loại váy mở, hình nón cụt, cạp váy được xếp nếp xoè rộng, trung bình mỗi váy có tới 40 - 50 nếp xếp, khi người đi, váy đu đưa lượn sóng. Váy của người Mông Trắng làm bằng vải lanh trắng không thêu hoa văn như Mông Đen.
Vẻ đẹp của chiếc áo phụ nữ Mông được tập trung ở cổ áo. Cổ áo thường là một thảm thêu thùa nhiều màu sắc, rộng tới 10 - 15cm. Thêu cổ áo rất cầu kỳ, cần nhiều thời gian, nhất là chiếc cổ áo cưới.
Mô típ hoa văn trên trang phục có những loại chính sau đây: hình chữ nhật, hình ô vuông, hình chữ thập, hình thoi, hình xoáy ốc và hoa lá.
Thân váy được trang trí các mảng hoa văn thêu, vẽ sáp ong hoặc ghép vải với nhiều hoạ tiết hoa văn. Cách in sáp ong, nhuộm chàm như sau: dùng sáp ong nóng chảy để vẽ hoa văn theo ý muốn lên trên nền lanh trắng, sau đó đem vải đã vẽ nhuộm chàm nhiều lần tạo thành màu vừa ý rồi nhúng vào nước nóng cho sáp ong tan ra, để lại hoa văn trắng trên nền chàm.
Thêu hoa văn bằng chỉ màu tạo nên hoa văn đẹp hơn cả. Chỉ màu đồng bào có thể tự nhuộm từ sợi lanh, có thể mua ở chợ. Đồng bào thường dùng vải dệt công nghiệp để ghép từng mảng lớn hoặc từng đường vân nhỏ ở nẹp áo, cổ áo, tay áo và đặc biệt là hai chiếc tạp dề đeo ở phía trước và sau bên ngoài váy hoặc quần của phụ nữ.
Y phục phụ nữ Mông còn có tạp dề (đại sế). Tạp dề được mặc ở phía ngoài váy, gồm có hai mảnh trước và sau. Mỗi nhóm Mông có cách trang trí khác nhau trên tạp dề. Tạp dề ở người Mông Đen chỉ thêu ở mảnh trước và có kích thước to hơn của người Mông Trắng.
Y phục của nam giới Mông đơn giản hơn, không có sự khác biệt giữa các nhóm. Áo truyền thống của người Mông gọi là lú tro, có đặc điểm tay chật và thon dần về phía cổ tay. Áo có 2 loại. Loại thứ nhất gọi là chon lau, ở trước cổ áo có một miếng vải hình số 7 có thêu hoa văn, đánh dấu bước trưởng thành của chàng trai và thể hiện tài thêu thùa của những người phụ nữ như mẹ, hay chị em gái trong gia đình. Loại áo này chỉ có ở người Mông Đen. Loại áo thứ hai gọi là chon tu chỉ có ở người Mông Trắng, không có miếng vải thêu trước ngực như ở áo của người Mông Đen.
 Tuy nhiên, giữa nhóm Mông Trắng và Mông Đen có sự khác nhau nhất định về cách trang trí tay áo: người Mông Trắng trang trí các mảng hoa văn vòng quanh tay áo với các hình ô vuông, quả trám bằng chỉ màu xanh, vàng, trắng... hoặc bằng cách ghép các viền vải màu xanh, đen vòng quanh tay áo nhưng không cao quá khuỷu tay; trong khi đó ở người Mông Đen lại vượt quá khuỷu tay, sát nách, chạm cầu vai. Cách trang trí này cũng tương tự ở tay áo nữ giới. Do đó, chỉ cần để ý quan sát cách trang trí ở tay áo trên bộ y phục của người Mông cũng nhận ra được đâu là người Mông Trắng, đâu là người Mông Đen. Đây cũng là đặc điểm trang trí của hai nhóm Mông này ở Thanh Hóa nói chung.
Quần (lú tri) của nam giới bằng vải màu đen thuộc kiểu quần chân què, rộng đũng, tạo sự thoải mái khi lao động, cạp vấn hoặc bỏ lá toạ nhưng thường có một khăn vải cũng màu đen thắt thay rút quần, hai múi khăn bỏ xuống phía trước che lấp khu vực bộ hạ. Trước đây, người Mông may quần từ vải lanh nhuộm chàm hoặc đen, nay phần lớn đã chuyển sang sử dụng vải phin hoặc vải thô nhuộm chàm rồi cắt may.
Trang phục của nam giới còn có bộ phận thắt lưng được làm bằng vải, rộng khoảng 20cm và dài khoảng 2m. Thắt lưng được làm đơn giản từ vải thô có màu xanh hoặc màu chàm. Những nam giới từ 60 tuổi trở lên thường quấn trên đầu một khăn vải thô (gọi là cho phụa) vừa giữ cho ấm đầu, vừa thể hiện người đã đến tuổi già cả.
Đồ trang sức của người Mông gồm có khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, bộ xà tích và nhẫn. Đồ trang sức không chỉ có chức năng thẩm mỹ mà còn là biểu tượng của sự giàu sang, có “tác dụng” ngăn chặn ma tà theo tín ngưỡng dân gian. Theo họ, đeo các đồ trang sức cũng là để bảo vệ con người trước lực lượng siêu nhiên. Tuy nhiên, chức năng thẩm mỹ là chức năng chính của đồ trang sức Mông. Đồ trang sức cổ truyền của dân tộc Mông chủ yếu làm bằng bạc trắng, gần đây một số nơi sử dụng đồ trang sức bằng hợp kim nhôm. 
Hiện nay, tập quán trồng lanh và dệt vải lanh của người Mông ở Quan Sơn vẫn còn, song vị thế giảm đi rất nhiều so với trước đây. Kiểu dáng, y phục dân tộc vẫn còn được bảo lưu nhưng chất liệu không hoàn toàn bằng vải lanh. Vì vậy, hiện nay, khi có dịp đến thăm bản của người Mông ở Thanh Hóa nói chung và huyện Quan Sơn nói riêng, chúng ta ít được nghe âm thanh dệt vải. Trang phục nhiều màu sắc của người Mông vẫn thấp thoáng trên nương rẫy, nhưng nó không bằng chất liệu lanh mà chủ yếu bằng vải dệt công nghiệp với kỹ thuật ghép vải khéo léo và tinh tế.
6.4.2. Vài nét về văn hóa tinh thần
6.4.2.1. Văn học dân gian
Trong kho tàng văn hóa dân gian của người Mông, văn học dân gian chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Văn học dân gian của người Mông nói chung rất phong phú về thể loại, tiểu biểu như: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại trữ tình, tục ngữ, cao dao, dân ca... Tuy nhiên, do những biến động lịch sử - xã hội, một bộ phận người Mông di cư tự do trong đó có người Mông ở Thanh Hóa cũng như người Mông ở Quan Sơn đã làm mất mát, phai nhạt đi ít nhiều vốn văn học dân gian tộc người. Song trong dòng chảy văn học dân gian của người Mông ở Quan Sơn có những điểm chung căn bản của người Mông ở Việt Nam. Về cơ bản vẫn còn lắng đọng những giá trị lịch sử - văn hóa cũng như nghệ thuật ngôn từ ở từng thể loại văn học dân gian.
Trong văn học dân gian, thần thoại là một thể loại văn học phong phú được thể hiện bằng những truyện kể dân gian. Các truyện dân gian khá đa dạng về nội dung chủ đề, trong đó nổi bật là đề cao những người thông minh tài giỏi, những anh hùng văn hóa xuất thân từ quần chúng, những mối tình đẹp, hay những người chiến thắng sự bạo tàn và sự bất công bảo vệ chính nghĩa. Thần thoại của người Mông còn có nhiều truyền kể giải thích về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên cũng như nguồn gốc động thực vật. Thần thoại của người Mông còn giải thích về nguồn gốc loài người, nguồn gốc dân tộc. Đó là truyện “Bọc thịt”, về mô típ nhìn chung tương tự như nhiều truyện “Quả bầu” của các dân tộc anh em khác. Ngoài ra, trong thần thoại còn có những truyện giải thích về những hiện tượng đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc (làm ma, cúng mụ, phụ nữ không được lên gác, cúng cột cái...) và được đồng bào ghi nhớ như những điều chỉ dẫn trong sinh hoạt gia đình, cuộc sống nói chung.
Truyện cổ tích cũng là một loại hình văn học khá phong phú và tương đối điển hình. Ở Thanh Hóa chưa có những nghiên cứu cụ thể về lĩnh vực này ở người Mông, nhưng bước đầu nghiên cứu sưu tầm, đối chiếu cho thấy người Mông ở Quan Sơn cũng như người Mông ở phía Bắc Việt Nam có hàng trăm truyện cổ tích. Căn cứ vào tiêu chí phân loại, có thể chia truyện cổ tích thành 3 loại: truyện cổ tích loài vật; truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt xã hội. Trong loại truyện cổ tích loài vật có những nhóm truyện kể về một số loài động vật: lợn, gà, bò... Nội dung cốt truyện vừa giải thích các đặc điểm con vật vừa giải thích các nghi lễ tín ngưỡng liên quan tới con vật... Trong loại truyện cổ tích thần kỳ, yếu tố thần kỳ đóng vai trò quyết định đến việc giải quyết xung đột của truyện, yếu tố thần kỳ còn chi phối quá trình phát triển dẫn dắt câu truyện. Nhìn chung, truyện cổ tích thần kỳ có hai nhóm, đó là truyện về các dũng sĩ tài hoa và truyện mồ côi. So với hai loại truyện trên, truyện cổ tích sinh hoạt xã hội chiếm tỷ lệ thấp nhất. Nổi bật các truyện cổ này là nói về các mối quan hệ gia đình ở những góc độ tốt xấu khác nhau, song nhìn chung các loại truyện này đều có ý nghĩa giáo dục, cảnh tỉnh... thể hiện tính nhân văn sâu sắc.
Bên cạnh các loại truyện cổ tích trên, người Mông huyện Quan Sơn còn lưu giữ được những truyền thuyết dân gian gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm, chống sự nô dịch, đàn áp, bành trướng của đế chế Đại Hán, để rồi sau đó người Mông bị mất đất và phải chạy đi nơi khác ở sinh sống trong đó có Việt Nam. 
Trong văn học dân gian của người Mông, dân ca chiếm một vị trí đáng kể. Kho tàng dân ca của người Mông bao gồm nhiều loại như: dân ca dao duyên, dân ca than thân trách phận, dân ca nghi lễ phong tục. Dân ca giao duyên là những bài dân ca về tình yêu nam nữ có nội dung tỏ tình, tương tư, thề thốt đến các bài ca thán tình yêu đổ vỡ, éo le, không trọn vẹn... Dân ca than thân trách phận, phản ánh nỗi khổ của phận làm dâu, của người mồ côi cha mẹ. Dân ca nghi lễ phong tục gắn liền với chu kỳ vòng đời mỗi con người. Có thể nói một cách hình ảnh là dân ca của người Mông ngân dài theo suốt cuộc đời một con người. Từ khi sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay người Mông luôn tắm mình trong các nghi lễ phong tục dân tộc. Hát ru là những mạch nguồn đầu tiên của dòng suối dân ca nuôi lớn tâm hồn trẻ thơ. Trong lễ cưới cũng như tang ma, các nghi lễ đều gắn liền với dân ca. Người Mông ở Quan Sơn, trong lễ cưới cũng như trong tang ma người ta vẫn còn gìn giữ được cả trăm bài hát dân ca theo trình tự các nghi lễ.
Đặc điểm chung là những bài dân ca không chỉ hát bằng lời mà còn có thể giãi bày với nhau bằng khèn, đàn môi, kèn lá. Các nhạc cụ đó gắn chặt với dân ca. Nghe khèn, kèn lá, đàn môi, người ta hiểu nội dung người thổi diễn đạt. Trong dân ca không chỉ có những bài ngắn mà còn có những tập dài nổi tiếng như Tiếng hát làm dâu, được các dân tộc anh em biết đến. Mỗi người Mông ít nhiều đều biết dân ca cũng như nhiều thanh niên biết gẩy đàn môi, thổi khèn... đó là những nhạc cụ truyền thống của dân tộc. 
Tục ngữ cũng là một thể loại văn học dân gian rất sinh động của người Mông. Đây là thể loại văn học có giá trị đúc kết những kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét, phán đoán, hay lời khuyên răn dạy bảo của dân gian dưới hình thức những câu nói ngắn, súc tích có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ lưu truyền. Tục ngữ Mông phản ánh tập trung 3 vấn đề cơ bản: kinh nghiệm sản xuất của nhân dân, phản ánh các mối quan hệ xã hội và phản ánh lối sống cùng những ứng xử của người Mông.
6.4.2.2. Tín ngưỡng tôn giáo
Tín ngưỡng tôn giáo là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và cầu mong mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Trong xã hội truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo của người Mông là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa tinh thần. Tín ngưỡng tôn giáo của người Mông có nhiều nét tương đồng với các tín ngưỡng tôn giáo của các tộc người khác ở cùng địa phương. Trong các hình thức tín ngưỡng tôn giáo của người Mông, việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là Sa man giáo, tô tem giáo... tương đối phát triển và tồn tại ở dạng tàn dư. Tín ngưỡng tôn giáo hòa điệu với các lễ thức hội hè làm cho đời sống tinh thần của đồng bào Mông trở nên phong phú và sinh động hơn.
- Thờ cúng tổ tiên:
Thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng tôn giáo quan trọng của người Mông, được thể hiện trong quan niệm, nghi lễ, kiêng kỵ và huyền thoại về tổ tiên.
Theo nhận thức chung, thờ cúng tổ tiên là thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã chết. Người Mông ở phía Bắc nước ta quan niệm tổ tiên là những người đã chết trong 3 đời trở lại (cha, ông, cụ). Quan niệm này được thể hiện trong các bài khấn mời tổ tiên (cúng năm mới, cúng ma trâu...) chủ nhà hoặc thầy cúng đều gọi tên tuổi những người thuộc 3 thế hệ đã khuất trở về ăn tết với con cháu, phù hộ cho con cháu làm ăn( ). Người Mông Trắng ở Quan Sơn thường tổ chức cúng tổ tiên - cúng họ tại nhà trưởng tộc vào ngày 29 tháng 9 âm lịch hằng năm. Theo phong tục, trưởng tộc thông báo trước cho những gia đình của dòng tộc biết để đóng góp cúng tổ và tổ chức ăn uống một bữa ở nhà trưởng tộc. Còn ở phạm vi gia đình, thường chỉ thờ cúng một đời trước, tức chỉ thờ cúng bố mẹ sinh ra mình đã mất. Người Mông ở đây thờ cúng tổ tiên vào những dịp lễ tết, khi gia đình có việc vui như cưới hỏi... Mục đích tưởng nhớ và cầu xin tổ tiên che chở cho người sống.
Trong một bản người Mông ở thường có 3 - 4 dòng họ, cụ thể là ở bản Ché Làu có 3 họ (Hơ, Thao và Giàng), bản Mùa Xuân có 3 họ (Thao, Hơ và Sung), bản Xia Nọi có 5 họ (Sung, Chá, Thao, Hơ, Hạ). Các thành viên trong dòng họ gắn bó chặt chẽ với nhau bởi cùng một phả hệ dòng nam do một ông tổ sinh ra. Trong ngày giỗ họ, tất cả các thành viên trong dòng họ phải tới dự. Ông trưởng họ thường kể về sự nghiệp của tổ tiên, các quy ước kiêng kỵ của dòng họ. Mỗi lần cúng như vậy, hình ảnh của tổ tiên lại được khắc sâu vào tâm trí của mỗi thành viên. Chính vì vậy tính cố kết dòng họ ở người Mông hiện nay vẫn còn rất sâu sắc và bền vững.
Bàn thờ tổ tiên, được đặt ở vị trí gian giữa. Tuy nhiên, cũng giống như người Mông ở Lào Cai và một số tỉnh ở phía Bắc, nhiều dòng họ Mông ở Quan Sơn nói riêng cũng như ở Thanh Hóa nói chung không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy bản có kích thước khoảng 25cm x 30cm gần nơi thờ “đa xử ca” ở bên bức vách hậu gian giữa. Trang trí trên bàn thờ là mảnh giấy bản và ống hương. Nơi đặt bàn thờ là không gian thiêng, chỉ có chủ nhà mới được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ, vì thế con gái và con dâu trong gia đình kiêng không qua lại khu vực này. Người Mông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới hoặc khi cần cúng chữa bệnh. Người Mông quan niệm, tổ tiên thuộc loại ma lành phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên, nếu không thờ cúng thành tâm, chu đáo thì tổ tiên cũng có thể bắt phạt làm cho con cháu ốm đau. 
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Mông còn thờ cúng một hệ thống ma nhà như ma đa xử ca, ma cột chính, ma cửa... gắn liền với những lễ thức đặc biệt.
- Thờ ma đa xử ca:
Đa xử ca (người Mông ở phía Bắc gọi là xử ca) là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà của người Mông. Đa xử ca gắn liền với quan niệm giàu có, nhất là về tiền bạc. Nơi thờ đa xử ca ở vách hậu gian giữa nhà, được định vị bằng miếng giấy bản màu có dán lông cổ gà và bôi ít máu gà. Vì gắn liền với quan niệm giàu có, tiền bạc nên hiện nay nơi thờ đa xử ca ở các gia đình tường có dán thêm một vài tờ tiền polime có mệnh giá từ 10 đến 50 ngàn đồng. Mỗi năm cúng đa xử ca một lần vào đêm 30 Tết. Đồ cúng phải có một con gà trống. Trước kia, mỗi khi giết gà cúng, ông chủ nhà thường cắt tiết gà gần chết rồi thả gà trong nhà để đoán định việc làm ăn trong năm bằng cách quan sát thấy gà quay đầu về bức vách thờ đa xử ca hoặc phía buồng ông bà chủ nằm thì năm đó gia đình làm ăn phát đạt, nhưng nếu gà quay đầu ra phía cửa chính thì báo hiệu năm đó gia đình gặp khó khăn, làm ăn không may mắn.
- Thờ ma cột chính: 
Trong bộ khung nhà của người Mông có 4 cột cái nhưng trong đó có một chiếc cột gọi là cột chính (dê trế). Đây là cây cột nóc của vì kèo ở giữa gian chủ nhà và gian thờ. Cột chính của ngôi nhà theo người Mông tượng trưng cho sự hưng thịnh của gia đình, liên quan đến sức khoẻ và vận mệnh của gia đình. Cột chính là nơi linh thiêng của ngôi nhà, nên kiêng dựa, treo quần áo, đồ dùng và đụng chạm mạnh vào đó. Cũng như người Mông ở phía Bắc, trước đây khi gia đình sinh con trai, nhau thai nhi sẽ chôn ở chân cột chính. Khi chết, thầy cúng phải chỉ đường cho hồn về nhận lại áo “nhau” ở chân cột chính mang về cho tổ tiên. Cúng ma cột chính hay còn gọi là cúng ma lợn, theo quan niệm của người Mông còn nhằm tạ ơn những người xưa kia đã giúp người Mông qua hoạn nạn, để tìm chữ viết đã mất. Lợn dùng trong lễ này phải là lợn nái đã đẻ. Sau khi làm lễ xong lấy xương hàm con lợn treo lên cây cột chính. 
- Thờ ma cửa chính:
Ma cửa chính gọi là Xìa mình. Trong tâm thức của người Mông nói chung và người Mông ở Quan Sơn nói riêng, ma cửa có nhiệm vụ như người lính gác cửa, ngăn ma ác vào nhà, bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn, ngăn không cho hồn của các thành viên trong gia đình bỏ đi. Khi nào súc vật chết vì bệnh tật, hoặc bị hổ vồ là do ma cửa bị ngã. Cũng có khi người đàn bà có thai ở gia đình khi bước qua ngưỡng cửa, ma cửa cũng bị ngã. Do đó cần làm lễ nâng ma cửa dậy. Theo quan niệm của đồng bào, ma cửa thường ngự ở miếng giấy đỏ hoặc miếng vải đỏ dán ở thanh ngang trước cửa chính. Do vậy, phụ nữ Mông trong thời gian thai sản, có kinh nguyệt hay sẩy thai kiêng không đi qua cửa chính. Ma cửa chính thường được cúng vào dịp Tết hoặc khi chăn nuôi không thuận lợi, khi có người ốm đau hoặc mất tài sản. Mâm lễ cúng ma cửa chính phải có một con gà trống được đặt ở cạnh cửa chính. Mỗi lần cúng ma cửa, gia đình phải thay miếng giấy đỏ hoặc miếng vải đỏ ở cửa chính. 
- Thờ ma buồng:
Theo quan niệm của người Mông, ma buồng (đá trùng) liên quan chủ yếu tới việc chăm sóc bảo vệ sức khoẻ trẻ em và phát triển đàn gia súc. Khi một cặp vợ chồng ra ở riêng sinh con đầu lòng mới đủ điều kiện thờ ma buồng.
Gia đình có trẻ nhỏ hàng năm thường làm lễ cúng ma buồng ít nhất một lần. Đồ cúng phải có một con lợn nhỏ được chọc tiết ngay trong nhà. Lễ cúng ma buồng thường cúng vào buổi tối hoặc ban đêm. Người lạ không được tham dự lễ cúng quan trọng này vì thế mỗi khi gia đình tổ chức lễ cúng ma buồng phải đóng chặt cửa.
Cách thức và số lượng bát thịt cúng ma buồng ở người Mông có sự khác biệt giữa các dòng họ. Số bát cúng ở mỗi dòng họ thường là số lẻ, nhiều nhất là 9 bát, ít nhất là 3 bát. Chẳng hạn như dòng họ Hơ và họ Thao ở Ché Lầu cúng 9 bát. Mâm lễ cúng được đặt trong buồng hoặc ở gian giữa nhà tuỳ theo từng gia đình, mỗi bát thịt cúng phải đủ các bộ phận của con lợn. Ngoài ra, lễ cúng còn có nước luộc thịt đựng trong quả bầu khô, cuống cong. Ông chủ nhà là người chủ trì lễ này từ việc chuẩn bị mâm lễ cho đến việc cúng. Ông đại diện gia đình khẩn cầu ma buồng bảo vệ hồn (plì) trẻ nhỏ, phù hộ trẻ nhỏ trong gia đình hay ăn chóng lớn, chăn nuôi được nhiều gia súc. Cúng xong ông rót nước thịt trong quả bầu ra các chén nhỏ bằng ống nứa cho trẻ nhỏ uống, với niềm tin trẻ sẽ được khoẻ mạnh. Số thịt cúng cũng được chia cho các thành viên trong gia đình ăn một bữa ở trong nhà, kiêng không mang ra ngoài nhà. Mỗi khi cúng xong, quả bầu cong và các chén bằng ống nứa được gói gém cẩn thận và cất trong buồng ngủ của vợ chồng chủ nhà.
- Thờ ma bếp:
Trong mỗi gia đình của người Mông ở Quan Sơn có hai bếp: bếp kiềng và bếp lò. Trước đây đồng bào dùng ba hòn đá kê làm kiềng, sau này mới dùng kiềng sắt. Bếp kiềng dùng để nấu các thức ăn hàng ngày và đun nước uống. Người Mông quan niệm có ma bếp nên phải thờ ma bếp, do vậy kiêng không được gõ vào kiềng, khạc nhổ và đổ những thứ nước bẩn vào bếp nhất là trong lúc nấu nướng. Ma bếp kiềng được cúng vào dịp Tết.
Mỗi khi dựng xong nhà mới người ta dùng đất sét để đắp bếp lò. Trong tâm thức của người Mông, bếp lò tượng trưng cho sự trường tồn, bền vững, no đủ của mỗi gia đình. Bởi vậy gian bếp lò được coi là gian gốc của ngôi nhà, vì vậy buồng của vợ chồng chủ nhà bao giờ cũng ở gian này (gian phải). Bếp lò thường dùng để nấu cám lợn, hoặc mỗi khi gia đình có tổ chức ăn uống cho nhiều người. Trên bếp lò ở mỗi gia đình người Mông hiện nay ở Quan Sơn vẫn thường có chiếc chảo gang tượng trưng cho sự no đủ, vì vậy chiếc chảo này kiêng cho mượn vì sợ mất của cải và những rủi ro sẽ đến với gia đình.
Ma bếp lò “đá kho chú” liên quan đến việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc. Bởi vậy, cũng giống như bếp kiềng, nhất là phụ nữ kiêng dẫm chân lên bếp lò, kiêng gõ và làm hư hại bếp. Khi lợn chửa người ta còn kiêng không lấy tro trong bếp lò, hoặc khi nhấc chảo cám ra khỏi bếp phải để một hòn đá vào giữa bếp, vì nếu không làm như vậy gia súc dễ bị dịch bệnh hoặc chết, phụ nữ gặp khó khăn trong sinh đẻ...
- Thờ ma bảo vệ lương thực: 
Trong ngôi nhà của người Mông, hai gian bên thường làm gác để cất giữ lương thực. Ở đó, lúa và ngô là nguồn lương thực thiết thân rất quan trọng trong đời sống của người Mông. Trong tín ngưỡng của người Mông có một loại ma luôn bảo vệ hồn lúa và ngô nên đồng bào còn gọi là ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô. Loại ma này thường trú ngụ trên gác (phía đầu bếp), nơi để thóc, ngô. Ma này có nhiệm vụ phù hộ cho được mùa hoặc có thể làm mất mùa tuỳ theo thái độ ứng xử của gia chủ. Nếu người lạ lên gác sẽ làm cho ma này sợ và bỏ đi, vì thế ngay cả con dâu trong nhà cũng kiêng lên gác. Bởi vậy những người thường xuyên lên gác để cất hoặc lấy lương thực xuống là đàn ông trong gia đình, nhất là ông chủ nhà. Người Mông thường cúng ma bảo vệ lương thực mỗi khi chuẩn bị thu hoạch.
- Thờ cúng tổ sư nghề
Trước đây cũng như hiện nay trong mỗi bản của người Mông cũng có ít nhất vài ba thầy cúng và vài ba thầy thuốc chữa bệnh bằng thuốc lá. Ở những gia đình có người hành nghề này thường có bàn thờ ma tổ sư nghề. Hai bàn thờ này được bố trí ở vách hậu cạnh nơi thờ ma nhà (đa xử ca). Nếu ở gia đình có người làm cả nghề thầy thuốc và thầy cúng thì đôi khi tổ sư nghề thuốc được thờ chung với tổ sư nghề cúng. Bàn thờ ma tổ sư thường là một cái giá làm bằng gỗ, ở trên giá được đặt bát hương và những dụng cụ hành nghề. Hằng năm chủ nhà cúng ma tổ sư vào dịp Tết năm mới, lễ cúng nhất thiết phải có con gà trống. Ngoài ra, mỗi khi có người đến mời đi cúng hoặc đến chữa bệnh xin thuốc thì cũng phải làm lễ cúng cho hai loại ma này.
- Thờ cúng thần cộng đồng 
Người Mông có tập quán thờ cúng các thần thổ địa (thu tỉ). Thần thổ địa được thờ ở một gốc cây to (hoặc hòn đá lớn) trong khu rừng cấm “lùng sán”. Việc thờ cây, thờ đá là một hiện tượng phổ biến ở các cư dân Đông Nam Á. Đồng bào quan niệm thần thổ địa chi phối cuộc sống của cộng đồng. Người dân trong bản khoẻ mạnh, được mùa, gia súc đầy đàn là nhờ thần phù hộ. Ngược lại gia súc bị bệnh dịch, người bị tai nạn là do có người hành động vô lễ với thần như: chặt cây trong rừng cấm, phá phách nơi thần ở... Hàng năm vào dịp tháng Giêng đại diện các gia đình trong bản đến khu rừng cấm, nơi thờ thần làm lễ cúng thần, lễ vật cúng là một con gà trống. Người Mông ở Quan Sơn thường tổ chức các nghi lễ thờ cúng vào các ngày 9, 19 hoặc 29 hằng tháng. Thầy cúng cầu xin thần phù hộ cho dân bản. 
- Tín ngưỡng vật linh giáo
Trong đời sống tinh thần của người Mông ở Việt Nam nói chung và người Mông ở Quan Sơn nói riêng còn tàn dư tín ngưỡng vật linh giáo. Đây là hình thái tôn giáo sơ khai có nguồn gốc từ thời kỳ nguyên thủy: quan niệm một số loài trong thế giới động thực vật và con người đều có phần hồn và phần xác. Phần xác là thực thể tồn tại mà con người nhìn thấy được, còn phần hồn (plì) rất quan trọng chi phối phần xác nhưng con người không thể nhìn thấy. Trong thế giới thực vật những cây trồng chủ yếu liên quan đến đời sống người Mông đều có hồn như ngô, lúa, lanh, thuốc phiện, các lọai gỗ quý dùng làm nhà (cây làm cột chính, pơ mu lợp mái...). Hoặc những cây cổ thụ ở trong rừng, những hang động, vách đá cũng đều có hồn. Như vậy, bên cạnh con người, trong thế giới động vật và thực vật chỉ có những cây, con liên quan đến đời sống người Mông hoặc quen thuộc với người Mông mới có hồn. Loài vật càng đặc biệt, hồn càng đáng sợ. Những gốc cây to, hình thù kỳ dị đều có tinh linh; hoặc hòn đá to, mỏm đá lạ đều là các vật có hồn đặc biệt, có khả năng chi phối đời sống của cộng đồng, dễ gây tai nạn cho con người nên một số nơi người dân phải tổ chức thờ cúng các tinh linh này. 
Xuất phát từ tín ngưỡng vật linh giáo, người Mông quan niệm cơ thể con người có 3 hồn:
Hồn thứ nhất ở trên đầu (trên chóp đỉnh đầu). Đây là hồn chính của con người. Ở trẻ em hồn rất yếu (thóp mềm) nên người lớn thường phải có ý thức bảo vệ hồn này cho trẻ nhỏ. Người Mông ở phía Bắc còn có những kiêng kỵ nhất định để bảo vệ hồn này, đó là phải kiêng không được xoa đầu trẻ em. Nếu ai nhỡ tay xoa đầu chúng để hồn hoảng sợ bỏ đi, phải làm gà làm lễ cúng gọi hồn (húp plì)( ). Song người Mông ở Quan Sơn lại quan niệm xoa đầu trẻ nhỏ là thể hiện sự quan tâm và thân thiện.
Hồn thứ hai ở rốn có nhiệm vụ cai quản thân thể và các bộ phận nội tạng. Còn hồn thứ ba ở ngực, hồn này rất ít bỏ đi chơi nhất là hồn của trẻ nhỏ, nhưng khi bỏ đi bệnh sẽ nặng. Vì vậy người Mông (phổ biến là trẻ nhỏ) thường đeo vòng cổ bảo mệnh. Vòng này tượng trưng cho chiếc khóa được thầy cúng phù phép ngăn cản hồn đi chơi. Đứa bé mới sinh ra chưa có hồn. Ba ngày sau gia đình phải tổ chức lễ gọi hồn (húp plì), lúc đó đứa trẻ mới được cộng đồng thừa nhận và được đặt tên.
Người Mông cho rằng, hồn liên quan đến sức khoẻ và sinh mệnh của con người. Nếu một trong ba hồn rời khỏi cơ thể sẽ gây ốm đau. Trong trường hợp một trong ba hồn ra đi, gọi không về, con người sẽ chết. Khi con người đã tắt thở, hồn thứ nhất sẽ bay lên trời và sẽ trở về với tổ tiên, hồn thứ hai gác mộ và hay về quấy nhiễu người khác. Do đó, người chết đến ngày thứ 13 gia đình phải làm lễ đuổi hồn, không cho hồn quay về quấy nhiễu gia đình. Hồn thứ ba sẽ đầu thai vào kiếp người hoặc kiếp vật (tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức khi còn sống của thân chủ). Các quan niệm về linh hồn như vậy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thờ cúng tổ tiên của người Mông nói chung và người Mông ở Thanh Hóa cũng như Quan Sơn nói riêng.
- Vai trò của thầy cúng trong đời sống người Mông
Ở vùng người Mông, các bản làng nào cũng có thầy cúng (chí nếnh). Có tài liệu gọi là thầy Sa man( ). Đây là những người được xem là có khả năng dùng phù phép đưa mình vào trạng thái hôn mê, trực tiếp giao thiệp cùng các thần. 
Nhiệm vụ chủ yếu của các thầy cúng là cầu cúng chữa bệnh, đi sang thế giới bên kia tìm bắt, dụ dỗ hồn người ốm trở về, ngoài ra họ còn biết bói toán tìm của cải bị mất, chủ trì một số nghi lễ tôn giáo như cúng trừ tà của gia đình, cúng ma lợn (bua tai)... Thầy cúng như một người liên lạc có khả năng thâm nhập vào thế giới bên kia. Nhưng muốn giao tiếp được với thế giới bên kia thì ông ta phải có tổ sư giúp đỡ gọi là ma tổ sư nghề cúng - đá nếnh. Đá nếnh vừa chỉ cho thầy cúng những nguyên nhân bệnh tật, vừa nêu các cách chữa bệnh (bằng lễ cúng)...
Thầy cúng muốn hành nghề được phải có những trang bị đặc biệt. Trước hết, mỗi thầy cúng đều có một bàn thờ riêng dựng bên cạnh nơi thờ ma nhà đa xử xa. Dụng cụ quan trọng của thầy cúng là đôi sừng bò, đây là dụng cụ âm dương (kạ lếnh). Nhạc cụ gồm một đôi nhạc ngựa bằng đồng (trong có 3 hạt nhỏ bằng sắt), một chiếc vòng lắc gồm 7 hoặc 9 mảnh sắt nhỏ gắn kèm, một chiếc thanh la bằng đồng. Thầy cúng chỉ có tấm khăn màu đỏ phủ lên mặt, che kín mắt khi ông ta lên đồng.
Khi làm lễ, thầy cúng lắc lư đầu, tìm cảm giác “váng vất” để dễ nhập đồng. Ông ta ngồi trên một tấm ghế dài, tấm ghế tượng trưng cho con ngựa thần. Nhờ con ngựa thần này, thầy cúng mới có khả năng đi đến thế giới bên kia.
Theo quan niệm của người Mông, người đau ốm là do hồn đi chơi vắng hoặc các loại ma bắt mất hồn. Các loại ma này là ma mặt trời (đá chủa tu) gây ra đau đầu, sốt nóng và chết, ma suối (đá dạ) là loại ma gây ra đau đầu, sốt nóng và chết... Tất cả các loại ma trên thường hay bắt hồn người, khiến người mắc bệnh. Do đó thầy cúng muốn chữa được bệnh, thầy phải đi sang thế giới bên kia tìm hồn, dụ dỗ hồn về, mặc cả với cả ma, đưa lễ vật cho ma để đòi lấy hồn, hoặc doạ nạt trừng trị ma đòi thả hồn.
Nhìn chung, thầy cúng không chỉ là những người cầu cúng, chữa bệnh cho người Mông mà họ còn là những người am hiểu lý lẽ, phong tục tập quán Mông. Từ việc chuyển nhà, làm lễ gọi hồn cho trẻ nhỏ, đến việc làm ma cho người chết, chữa bệnh lúc ốm đau... đều có ý kiến và sự tham gia của thầy cúng. Do vậy từ lâu họ là những người có uy tín được dân làng kính trọng.
6.4.2.3. Phong tục tập quán
- Phong tục trong sinh đẻ 
Trong xã hội truyền thống, người Mông có tập quán kết hôn sớm, có con sớm cũng là mong ước chung của mọi gia đình. Tuy vậy, do sống ở môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, địa hình chia cắt nên trước đây thường xảy ra hiện tượng hữu sinh vô dưỡng.
Đồng bào có tập quán đẻ ngồi. Việc đỡ đẻ do những người thân và làng xóm giúp. Khi đẻ khó gia đình phải nhờ thầy cúng thực hiện một nghi lễ truyền thống đó là lễ cúng xin “mẹ tròn, con vuông” gọi là lễ đề ca sủa. 
Khi đứa trẻ sinh ra, rau thai nhi sẽ được chôn ở cột nhà chính (nếu đứa trẻ là con trai) với ý niệm con trai sẽ trở thành trụ cột gia đình. Nếu đứa trẻ là con gái, rau thai nhi chôn ở gầm giường ngủ với niềm tin con gái sau này sẽ là người nuôi dạy con cái và nội trợ giỏi. 
Trẻ sơ sinh được ba ngày gia đình tổ chức lễ gọi hồn (húp plì) và đặt tên cho trẻ. Lễ gọi hồn, lễ đặt tên là tín hiệu của văn hóa tộc người đón nhận thành viên mới vào cộng đồng. Trong lễ thức gọi hồn đặt tên cho trẻ sơ sinh là bé trai, người Mông phải đặt nỏ lên bàn thờ với ý niệm mong bé trai thở thành chiến binh ngoan cường.
Khi nhà có người đẻ, gia đình cắm một cành lá tươi ở cửa chính làm tín hiệu báo cho người ngoài biết để không vào trong nhà trong những ngày trẻ mới sinh. Tục kiêng này người Mông gọi là cấm bang. Cũng trong thời gian ở cữ một tháng, những người phụ nữ trong gia đình không được ra vào bằng cửa chính mà phải đi bằng cửa phụ.
Ngoài ra, người Mông còn có phong tục làm lễ mừng tuổi cho con khi đứa trẻ được một tuổi. Trong trường hợp đứa nhỏ hay ốm đau gầy yếu, người Mông làm lễ nhận bố nuôi (tủa sảo) cho con.
Cũng giống như người Mông ở phía Bắc, người Mông ở Quan Sơn hiện nay vẫn còn giữ phong tục thờ bà mụ (đá trung). Tục thờ này chỉ được diễn ra ở những người phụ nữ đã có con. Vì theo quan niệm của đồng bào Mông, bà mụ có liên quan đến sức khoẻ của gia đình, sản xuất, nhưng chủ yếu liên quan đến chăn nuôi và việc chăm sóc trẻ em. Cúng mụ phải mổ lợn, cách cúng giống như cúng ma cửa chính (xìa mình) mà cả họ vẫn làm. Ở một số nơi, đàn bà có thể tự cúng lấy nhưng nói chung việc cúng do một người biết cúng trong họ đảm nhiệm. Tùy từng họ lễ cúng tiến hành ở trong buồng hay ở gian giữa nhà. Mỗi khi gia đình tổ chức lễ này phải đóng chặt cửa nhà vì kiêng người lạ xuất hiện và kiêng quét nhà trong ba ngày.
- Phong tục trong hôn nhân
Theo tập quán cũ, trong hôn nhân của người Mông, con dì con già, con cô con cậu được lấy nhau. Con trai cậu lấy con gái cô được coi là điều tốt. Người cô khi gả bán con gái trước hết phải gả cho con cậu với quan niệm “nước tốt kiêng để chảy vào ruộng nhà người”. Còn cậu thì có quyền đòi cô gả con gái cho con trai mình vì “tôi đã để vật quý ở đâu thì phải lấy lại nó”. Đồng bào còn có tục em chồng phải lấy chị dâu goá. Nếu em chồng đã có vợ thì chị dâu phải làm lẽ. Nếu không có em chồng thì chị dâu phải lấy em họ. Nay tập quán này hầu như không còn duy trì nữa.
Trước đây người Mông còn phổ biến tục “kéo vợ”( ). Theo tục lệ này, trai gái yêu nhau, nhưng nhà nghèo, không lo đủ tiền thách cưới cho nhà gái nên đôi trai gái quyết định thể theo tục này. Tuy vậy, trước đây, nhất là người Mông ở phía Bắc cũng có không ít trường hợp chàng trai tổ chức đón đường rồi kéo người con gái về nhà, dù người đó không bằng lòng. Song cũng không ít trường hợp cô gái phản kháng với cách bắt ép này. Có lẽ từ cách ứng xử cưỡng ép này mà dẫn đến việc gọi tục cướp vợ thay vì tục kéo vợ.
Xét về mặt quan hệ xã hội, tục kéo vợ là hình thức hôn nhân tự do của người Mông, không bên nào cưỡng ép bên nào, ít nghi lễ, ít tốn kém, hôn nhân dựa trên tình yêu thực sự, do đó có cơ sở đảm bảo hạnh phúc gia đình. Tục kéo vợ đã tồn tại trong lịch sử nhiều dân tộc, như ở người Tày, Nùng trước đây cũng có tục tương tự mà đồng bào gọi là tục “đeo túi” (thắc tày). 
Theo phong tục cổ truyền, lễ cưới của người Mông gồm 3 nghi lễ chính: lễ dạm hỏi, lễ đưa đồ cưới và lễ cưới.
Lễ dạm hỏi thường diễn ra sau mùa thu hoạch, khi nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, nhờ hai ông mối thay mặt nhà trai sang nhà gái dạm hỏi. Hai ông mối phải là người tài ăn nói, thạo lý lẽ và hiểu biết về phong tục tập quán. Lễ dạm hỏi, hai ông mối đem theo lễ vật gồm gà, rượu, bạc. Mục đích của lễ dạm hỏi là hai ông mối phải thống nhất được với nhà gái ngày tốt cho lễ cưới và các khoản thách cưới.
Trước đây, lễ cưới thường được tổ chức vào mùa đông, kiêng cưới vào mùa có tiếng sấm. Khi chuẩn bị đủ mọi khoản thách cưới cần thiết theo yêu cầu của nhà gái thì gia đình nhà trai sang nhà gái tổ chức lễ cưới và đón dâu. Lễ vật thách cưới cũng tuỳ vào hoàn cảnh của từng gia đình. Trước đây cũng như hiện nay lễ vật thách cưới của người Mông ở Quan Sơn (kể cả ở Mường Lát, Quan Hóa) thường là 50kg thịt lợn hơi và 50 bát rượu. Đoàn đón dâu sang nhà gái phải là số lẻ như 7, 9, 11, 13... người, gồm: hai ông mối, chú rể, một phù rể và một số bạn bè, người thân chú rể. Đám cưới tổ chức ở nhà gái thường diễn ra một buổi. Trường hợp nhà chú rể ở xa, đoàn đón dâu phải ngủ lại ở nhà gái một đêm. 
Sau khi làm xong các thủ tục tại nhà gái, đoàn người đưa dâu về nhà chú rể. Lễ đưa dâu của nhà gái cũng tổ chức trang trọng. Đúng giờ đưa dâu, cô dâu mới được ra khỏi buồng. Dẫn đầu đoàn người đưa dâu là hai ông mối nhà trai cầm ô đi trước, mục đích là xua đuổi ma xấu bảo vệ hạnh phúc cho cô dâu chú rể, tiếp theo là cô dâu và phù dâu, hai ông mối nhà gái, chú rể và phù rể cùng bạn bè và họ hàng hai họ. Trên đường đón dâu về nhà bao giờ đoàn đón dâu cũng phải nghỉ lại ở giữa đường ăn cơm rồi mới về nhà. Trong khi ăn phải vứt một ít cơm, thịt ra xung quanh mời các ma rừng, ma đất, ma đói để cầu an cho cô dâu chú rể.
Đoàn đón dâu về đến nhà trai, trước khi cô dâu bước qua ngưỡng cửa chính vào trong nhà, người nhà chú rể ôm con gà trống đi vòng quanh cô dâu ba vòng thực hiện nghi lễ nhập hồn cô dâu vào ma nhà chồng. Kể từ đó phần hồn cô dâu luôn được các ma nhà chồng bảo vệ. Cũng xuất phát từ tập quán nhập gia tuỳ tục nên cô dâu người Mông ở Quan Sơn về nhà chồng phải mặc y phục theo dân tộc nhà chồng. Nếu cô dâu là người Mông Trắng lấy chồng là người Mông Đen thì khi về nhà chồng kể từ ngày cưới phải mặc váy đen và ngược lại.
Lễ lại mặt được tiến hành sau khi cưới ba ngày, đôi vợ chồng trẻ được gia đình bên vợ tiếp đãi ân cần và chu đáo. 
Hiện nay, người Mông ở Quan Sơn vẫn còn tục hát dân ca trong đám cưới. Các bài dân ca được hát trình tự theo các nghi lễ từ lúc đi đón dâu cho tới khi đến nhà gái đón dâu, làm các nghi lễ ở nhà gái cho tới khi xin dâu, giao dâu cho mẹ chồng, tính ra có đến cả gần một trăm bài ca. Đây là nét đặc trưng trong hôn lễ của người Mông, hiếm thấy ở các dân tộc khác.
- Phong tục trong tang ma
Lễ tang các dân tộc ở Việt Nam nói chung và của người Mông nói riêng phản ánh các quan hệ về lịch sử - xã hội và cộng đồng dân tộc. Qua lễ tang cũng cho thấy phần nào nhận thức về thế giới quan và nhân sinh quan của tộc người. Người Mông quan niệm, thế giới có ba tầng: tầng trên trời là thế giới tổ tiên, tầng ở giữa là thế giới con người, tầng dưới lòng đất là địa ngục, âm phủ. Theo quan niệm của đồng bào, con người có 3 linh hồn (plì), khi chết linh hồn cũng đều lìa khỏi xác đi ba nơi khác nhau: hồn gốc về với thế giới tổ tiên, hồn thứ hai lên trời và hồn thứ ba đầu thai ở trần. Quan niệm này quy định các nghi lễ trong tang ma. Đây là một hiện tượng văn hóa đặc sắc bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau. Nhìn chung, tang ma của người Mông ở Quan Sơn về cơ bản giống tang lễ của người Mông ở các tỉnh phía Bắc và được trải qua một số nghi lễ chính sau:
Lễ chỉ đường: Nếu như người Mông ở phía Bắc khi tắt thở phải bắn súng, sau đó dùng tù và thổi ba hồi báo cho dân làng biết gia đình có người chết thì người Mông ở Thanh Hóa, cụ thể ở Quan Sơn lại báo hiệu bằng trống. Do vậy, cứ nghe mấy hồi trống gióng lên thì biết trong bản có người chết, các gia đình trong bản nghỉ lao động để phụ giúp tang chủ. Chính vì thế người Mông rất kiêng tiếng trống và chỉ dùng trống trong đám ma. Có lẽ vì thế mà hiện nay những trường học ở trong bản Mông sử dụng kẻng để báo hiệu thay vì trống - một dụng cụ hiệu lệnh truyền thống còn phổ biến ở những trường học vùng nông thôn nói riêng hiện nay.
Sau khi người nhà tắt thở, gia đình chủ động khâm liệm người chết. Người Mông ở Thanh Hóa nói chung và ở Quan Sơn nói riêng xưa cũng như nay không có tập quán đặt xác người chết vào quan tài. Sau khi khâm liệm xong, người nhà đặt người chết lên cáng để tang, khi đi chôn cũng khiêng bằng cáng, trước khi chôn người ta lắp ghép các miếng ván xuống huyệt theo hình quan tài sau đó đặt thi thể vào đó rồi lấp đất. Tập tục này bắt nguồn từ chính địa hình dốc và chia cắt, dân cư thưa thớt lại sống phân tán, nên khâm liệm xác người chết trong quan tài sẽ rất khó khăn trong việc vận chuyển lúc an táng. Bởi vậy, hiện nay chỉ trừ những gia đình người Mông sống ở phố, hoặc cạnh đường lớn dễ đi lại thì mới khâm liệm người chết vào quan tài, còn lại phần lớn người Mông ở các bản vùng cao, vùng sâu thì vẫn mai táng như nếp cũ trước đây.
Trong thời gian để tang, giữa người Mông Trắng và Mông Đen có khác nhau. Ở nhóm Mông Đen, trong thời gian quàn xác để tang ở nhà, nếu người chết là nam giới thì đặt thi hài ở phía trên gian giữa nhà (gần khu vực vách hậu, cạnh nơi thờ tổ tiên), còn nếu người chết là nữ thì đặt thi hài ở khu vực gần cửa chính, đến giờ đưa ra khỏi nhà đi chôn mới đặt lên cáng. Tập tục này bắt nguồn từ quan niệm nam trong nữ ngoài (người ngoài lấy về làm vợ). Trong khi đó ở người Mông Trắng cứ tắt thở là đưa lên cáng để tang; thi hài cả nam và nữ đều đặt ở phía trên gian giữa, thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ gia đình. 
Công việc tiếp theo là người nhà đi mời ông thầy cúng (dở mổ) đến làm lễ chỉ đường (tơ kê). Đây là lễ thức rất quan trọng. Thầy cúng đọc bài chỉ đường hướng dẫn hồn người chết tìm đường về với tổ tiên. Người Mông quan niệm phải có bài chỉ đường, linh hồn người chết mới trở về được với tổ tiên. Vì vậy, một số gia đình nghèo không cần làm ma, chỉ làm lễ chỉ đường xong là có thể đem người chết đi chôn.
Sau lễ chỉ đường là những nghi lễ khác tiếp theo, đó là lễ thổi kèn, lễ đuổi giặc, lễ viếng, lễ đưa người chết ra ngoài bãi, lễ hạ huyệt( ).
Trong đám ma của người Mông thường dùng khèn, trống. Họ thổi khèn xướng theo các hát trong suốt thời gian để tang để bày tỏ nỗi luyến tiếc của người sống đối với người chết. Người Mông ở Quan Sơn có đến cả trăm bài hát được hát trong đám ma, trong đó nhiều bài có nội dung giáo dục rất sâu sắc. Với truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, những người đến viếng đám tang thường mang theo giấy bản, ngô, rượu; người thân mang cả chăn lanh, lợn để cúng người chết và giúp đỡ tang chủ.
Do điều kiện đi lại khó khăn, việc báo tin buồn cho người thân ở xa mất nhiều thời gian nên xưa kia đám tang thường kéo dài từ 5 - 7 đêm. Hiện nay đường sá và thông tin liên lạc thuận tiện nên thời gian tổ chức lễ tang đã giảm xuống chỉ còn 2 - 3 đêm.
- Phong tục trong lễ tết
Theo phong tục, đồng bào Mông ăn tết truyền thống (nò xia) vào tháng Chạp. Ý nghĩa tết truyền thống của người Mông là ăn mừng thắng lợi một mùa sản xuất và chuẩn bị cho một mùa nương rẫy mới. Đây là dịp để anh em, họ hàng, làng xóm đến thăm hỏi lẫn nhau và cùng ăn uống vui vẻ. Chính vì thế dù ít dù nhiều các gia đình đều phải chuẩn bị lợn, gà, rượu, bánh trái,... để dâng cúng tổ tiên và đãi khách. Vì tết kéo dài cả tháng do đó các gia đình đã phải chuẩn bị nuôi nhiều lợn, gà, vịt... để lấy thực phẩm. 
Trước đây, trong dịp tết Nguyên đán các bản còn tổ chức lễ hội Nào xồng. Mục đích của lễ hội này là cúng thổ thần, bàn bạc công việc của bản và bầu người hội đầu mới. Đây là lễ hội có ý nghĩa cố kết cộng đồng của bản. Hiện nay lễ hội này không còn duy trì nữa.
Ngoài ra, trong xã hội truyền thống, người Mông cũng tổ chức ăn tết vào dịp rằm tháng bảy (nò táo gia), thời gian kéo dài một ngày. Các gia đình mổ lợn, đồ xôi, làm bánh để cùng nhau ăn uống. Mục đích của ăn tết tháng bảy là cầu mong cho mùa màng phong đăng, không bị sâu bệnh, cuối năm thu hoạch được nhiều lương thực, gia đình ấm no hạnh phúc.
6.5. DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA, DANH THẮNG Ở HUYỆN QUAN SƠN 
Trên đất Quan Sơn hiện nay có khá nhiều di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh. Các bản mường cổ là nơi lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống và những cảnh quan nhiên nhiên nguyên sơ, kì vĩ. Đây là một trong những tiềm năng văn hóa, du lịch của Quan Sơn.
Quan Sơn có tiềm năng, thế mạnh về du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng bởi hệ thống đường giao thông, sông suối dày đặc với quần thể hang, động tương đối phong phú đa dạng và có Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo. Những tiềm năng này rất thuận lợi trong việc phát triển du lịch đường bộ theo hướng gắn văn hóa tâm linh với các điểm có thế mạnh trong việc xây dựng du lịch như: hang Hòm (xã Trung Xuân); suối Bá ở bản Xày, thác suối Din (bản Din, xã Trung Hạ); núi Pù Mằn (xã Trung Thượng); di tích lịch sử cầu Pha Lò (xã Trung Thượng); động Nang Non - pha Su Lú (xã Sơn Lư); dấu tích Pha Phanh (xã Sơn Điện) gắn với bài ca kháng chiến của quân và dân ta trong thời kỳ chống thực dân Pháp; thác 20 sải suối Khà (bản Ngàm, xã Tam Thanh); thác bản Nhài (xã Sơn Điện); hang Co Láy, dòng suối Xia, Pha Dùa, động Bo Cúng (xã Sơn Thủy); đền thờ Tư Mã Hai Đào gắn với lễ hội mường Xia, núi Lá Hoa (xã Sơn Thủy). Quần thể hang động Sa Ná, Son (xã Na Mèo), Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo... trong tương lai sẽ kết nối với thủ đô kháng chiến, di tích lịch sử cách mạng Lào tại huyện Viêng Xay - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, cách Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo khoảng 50km. Đây là một trong những điểm thu hút khách du lịch quốc tế tương đối lớn. 
Sau đây là một số di tích, danh thắng, không gian văn hóa tiềm năng ở huyện Quan Sơn có thể phát triển các loại hình du lịch.
6.5.1. Các di tích, danh thắng xã Trung Xuân
Hang Hòm ở Pù Dờn
Pù Dờn ở phía bắc sông Lò thuộc đất bản Muống. Pù Dờn là một núi đá có cây. Ở độ cao 100m so với mặt đất có một hang có nhiều quan tài cổ. Quan tài người Thái gọi là “hòm” nên đồng bào gọi hàng này là hang Hòm.
Hang Phỉ ở Pù Cọ
Hang Pù Cọ là một hang đá khá rộng ở phía bắc sông Lò, có thể chứa được hàng trăm người. Do có phỉ ở đó một thời gian nên hang Pù Cọ còn có tên là hang Phỉ. Năm 1962, lợi dụng địa hình hiểm trở lại xa dân cư, Mỹ Diệm đã đưa một tốp phỉ, trong đó có cả người Quan Hóa đi lính Pháp ngày trước nay làm biệt kích cho chúng xuống nhằm phá an ninh trật tự ở hậu phương ngay trên địa bàn. Bọn chúng bị nhân dân phát hiện báo cáo với chính quyền và chúng đã bị bộ đội, công an, dân quân du kích địa phương bao vây bắt sống toàn bộ.
Pha Sói ở bản Piềng Phố
Pha Sói là một núi đá có cây không cao lắm. Trên núi có một cái hang khá rộng ở cách mặt đất khoảng 10m. Các thợ săn lên núi săn khỉ phát hiện ra hang này, khi vào trong hang thì thấy có nhiều quan tài của người xưa. Không biết từ đời nào và đi bằng cách nào mà người xưa đưa được quan tài vào hang ở độ cao như vậy. Sau khi phát hiện, các thợ săn đã trình báo với chính quyền địa phương. Chính quyền xã báo cho huyện và cơ quan chức năng biết. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đã lên khảo sát hang động này cùng những hiện vật trong đó.
6.5.2. Các di tích, danh thắng xã Trung Hạ
Thác suối Tiên ở bản Xày
 Suối Tiên chảy từ xã Lâm Phú (huyện Lang Chánh) qua bản Đôn, bản Cháo, bản Tiên về xã Trung Hạ, qua bản Xày, bản Chiềng rồi đổ ra sông Lò tại Km 19, đường 217 thuộc địa phận bản Xày.
Tại nơi giáp ranh giữa bản Tiên (xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh) và bản Xày (xã Trung Hạ), suối Tiên đổ từ trên cao xuống tạo thành thác nước rất đẹp. Nhân dân gọi thác nước này là thác Tiên (kánh Tiên). Từ thác Tiên vào phía xã Lâm Phú gọi là suối Tiên, từ thác Tiên ra phía bản Xày gọi là suối Xày. Thác Tiên cách trung tâm bản Xày về phía nam (xã Lâm Phú) khoảng 1,5km. 
Thác Ma Hao - suối Din ở bản Din
Suối Din ở phía bắc sông Luồng, đối diện với Piềng Din (bản Din). Suối bắt nguồn từ dãy Pha Phanh giáp xã Nam Tiến (huyện Quan Hóa) chảy theo hướng tây bắc - đông nam đổ về sông Lò tại Piềng Din bản Din. Suối có độ dài khoảng 4km. Khi ra gần sông Lò khoảng 500m suối tạo thành nhiều thác liên tục tung bọt trắng xóa, tỏa hơi nước ra xung quanh mát rượi. Thác dưới cùng là Ma Hao, cao khoảng 15m, dựng đứng, tỏa hơi nước như sương. 
Tương truyền rằng, thời giặc cờ đỏ (quân Thanh, Trung Quốc) cướp phá nước ta chúng đem chó dẫn đường đi lùng sục nhân dân bản Din sơ tán ở trong suối Din. Khi vào đến thác thứ nhất, trong khi chúng đang loay hoay tìm đường lên thác và ngắm cảnh đẹp của thác thì lũ chó đi theo đã ngáp ngủ và không con nào đi theo chúng vào khe tìm dân ta sơ tán trong đó. Thúc mãi chó không đi chúng cũng mệt và lăn ra ngủ sau đó rồi về. Ngáp ngủ tiếng Thái gọi là “hao”, chó là “ma”, do vậy mà thác nước đó có tên là thác chó ngáp ngủ, tiếng Thái gọi là kánh Ma Hao.
Thác bản Xày - suối Bá tại Km 18 - đường 217
 Dòng suối Bá chảy từ bản Xanh, ra đến bản Bá gọi là suối Bá. Khi suối Bá qua đường 217 về địa phận bản Xày và đổ xuống sông Lò từ trên cao hàng trăm mét, bọt nước tung trắng xóa. Đứng dưới chân thác nước nhìn lên cảm giác dòng nước trắng xóa đổ ào ạt như từ trên trời xuống. 
6.5.3. Các di tích, danh thắng xã Trung Tiến
Bản Cum - Suối Cum 
Bản Cum là bản của dân tộc Thái. Bản có tự bao giờ không ai nhớ rõ. Bản tọa lạc trên một lô đất khá bằng phẳng bên cạnh suối Cum mát mẻ, nước chảy rì rào quanh năm suốt tháng.
Bản Cum trước đây có tên gọi là bản Co Cúm (co cúm là một loại cây có trái tròn, khi chín thơm lừng, thường mọc ở ven sông, suối). Tại vị trí bản ngày nay người xưa gọi là piềng Co Cúm. Sau đó dân đến ở và khai phá làm ruộng trước mặt bản. Lâu ngày từ “Cúm” biến thành từ “Cum”, bản Cúm trở thành bản Cum.
Bản Cum còn có tên gọi nữa là Cum Cuống (bản Cum Trong). Khi chia tách thành lập bản mới (năm 1988) bản Cum Ngoài lấy tên là Pa Chè (rừng chè) vì ở đó có nhiều chè, còn bản Cum Trong gọi là Cum.
Xét về nhiều mặt, cùng với bản Lầm và bản Lộc, bản Cum được xếp vào loại bản đẹp so với các bản ở xã Trung Tiến. Đồng bào trong bản chủ yếu ở nhà sàn kê tảng kiểu cũ và kiểu mới; nhiều nét văn hóa truyền thống và phong tục tập quán của dân tộc Thái hiện diện rõ trong đời sống.
Suối Cum bắt nguồn từ chân núi phía đông núi Pù Mằn chảy theo hướng tây nam - đông bắc về sông Lò tại cầu Km 25 (cầu suối Cum). Suối Cum dài khoảng 12km, lưu lượng nước khá lớn. Suối Cum cung cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu đồng ruộng, cây trồng cho bản Cum, Pa Chè, khu dân cư Km 25, các trường tiểu học, THCS và cơ quan ở xã Trung Tiến.
Dọc suối Cum theo đường lâm nghiệp do Lâm trường sông Lò mở có các thác nước trắng xóa, các dãy núi đồi cây xanh rì ngút mắt. Phía trong bản Cum khoảng 2km là địa điểm đội 3 Lâm trường sông Lò ở, trước đây trồng nhiều cây mỡ nay đã đến tuổi khai thác.
Bản Lộc và bản Tong 
Bản Lộc và bản Tong là hai bản đối diện nhau, cách nhau con sông Lò thơ mộng, hiền hòa. Thời kỳ xây dựng hợp tác xã nông nghiệp thì hai bản chung một hợp tác xã lấy tên là Hợp tác xã Nông nghiệp Lộc - Tong. Hợp tác xã này làm ăn giỏi có tiếng của huyện Quan Hóa (cũ) thời kỳ những năm 60 của thế kỷ trước.
Bản Lộc (có người nói là bản Lốc) mang tên guồng nước tưới ruộng của bản. Thời chưa đào được mương dẫn nước từ suối Cum (bản Cum) về tưới ruộng, toàn bộ cánh đồng khá rộng của bản Lộc chỉ chờ guồng nước mang nước từ sông Lò về tưới. Do vậy, đến bản Lộc trước kia thấy hàng dãy dài vài chục chiếc guồng cần mẫn đưa nước sông Lò lên tưới ruộng cho bản là vì vậy. 
Bản Tong ở phía bờ bắc sông Lò đối diện với bản Lộc tại Km 22 + 200 lên Km 23. Cánh đồng rộng 9,5ha trước bản, dùng mỏ nước ở Pha Ngua tưới không đủ nên đồng bào phải làm guồng lấy nước từ sông Lò lên tưới ruộng. Dãy guồng nước này thu hút nhiều người chụp ảnh, ghi hình, làm thơ ca ngợi về nó. 
6.5.4. Các di tích, danh thắng xã Trung Thượng
Bản Khạn, mó nước nóng 
Bản Khạn ở biệt lập giống như ở trên một cao nguyên thu nhỏ. Bản Khạn có vị trí: phía bắc giáp bản Đe, xã Trung Tiến và xã Nam Động, huyện Quan Hóa; phía nam giáp bản Ngàm, bản Bôn xã Trung Thượng; phía tây giáp bản Bàng xã Trung Thượng; phía đông giáp bản Bách xã Trung Thượng.
Bản Khạn tọa lạc trong một thung lũng đẹp, sơn thủy hữu tình. Bản Khạn có núi cao, hang động, thác nước và những ngôi nhà sàn cổ truyền của người Thái, những thửa ruộng bậc thang, những khu rừng nguyên sơ giàu tiềm năng. Địa hình nơi đây bằng phẳng, nhiều phong cảnh đẹp, đặc biệt là có mỏ nước nóng lạnh ngay gần bản và hang động Nàng Tiên (thắm Hin Dón) ngay thác Hin Dón của suối Khạn. Ngoài ra bản còn có thác Mây Mù (kánh Móc) tỏa màn sương ra xung quanh và thác Hin Dón (thác Đá Nhô) cao khoảng 30m. Ngay cạnh chân thác Hin Dón bên trái có một hang động, đồng bào gọi là thắm Tiên (hang Tiên). Cửa hang chỉ vừa lọt người nhưng càng vào càng rộng và cao với chiều dài khoảng 1.000m. Trong hang có nhiều cảnh đẹp như cảnh tiên nên đồng bào gọi là hang Tiên. Hang còn có tên khác là thắm Hín Dón (hang Đá Nhô) theo tên của thác.
Bản Khạn chủ yếu sử dụng nguồn nước từ mỏ nước nóng lạnh ở đầu bản. Mỏ nước nóng lạnh có lưu lượng nước khá lớn, trong veo, tuôn trào suốt ngày đêm đưa nước vào suối Khạn. Nhân dân bản Khạn đã xây bờ bao chắn nước tạo thành cái ao nhỏ khoảng 70m2 và xây nhà tắm dưới bờ chắn, gắn 4 miệng ống to bằng bắp tay cho bà con sinh hoạt hàng ngày. Mỏ nước này về mùa thu, đông thì ấm, mùa xuân, hè thì mát lạnh. Do vậy, đồng bào mới đặt tên là mỏ nước nóng lạnh. Ngoài mỏ nước nóng lạnh, trong bản còn có mỏ nước Bo Ngoạng và mỏ nước Bo Khằm (mỏ Vàng) giữa lòng suối Khạn. Xung quanh bản Khạn có nhiều dãy núi, cây cối sum suê, xanh rì mát mắt. Trong bản có đủ kiểu nhà sàn đứng ngạo nghễ, ung dung. 
Cầu Pha Lò (Phà Lò)
Cầu Pha Lò là di tích lịch sử cấp tỉnh đã được xếp hạng tại Quyết định số 2514/QĐ-UBND ngày 04/08/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa. Đây là địa danh nổi tiếng từ xa xưa. Nơi đây lưu truyền nhiều câu chuyện dân gian về việc chia đất đai giữa tạo mường Chự và tạo mường Mò thời trước. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cầu Pha Lò là nơi bị giặc đánh phá ác liệt nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông nối đôi bờ sông Lò, ngăn con đường giao thông của ta sang nước bạn Lào. Ngày 10/02/1966, lực lượng dân quân các xã Trung Hạ và Tam Lư( ) đã bắn cháy 1 máy bay F105 của Mỹ bằng súng bộ binh tại trận địa phòng không bảo vệ cầu Pha Lò. Cùng với các danh thắng phụ cận, cầu Pha Lò đang được quy hoạch xây dựng để trở thành một điểm đến hấp dẫn trong thời gian tới.
Núi Pù Mằn
Núi Pù Mằn là núi đất, có độ cao 1.247m so với mực nước biển. Pù Mằn giáp với bản Nà Đang (xã Lâm Phú, huyện Lang Chánh) và bản Xum (xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn) nhưng thuộc đất bản Ngàm (xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn). Pù Mằn cũng với Pù Kùn của bản Xum (xã Sơn Hà) và ngọn Nóc Ngua, bản Nà Đang (xã Lâm Phú) tạo nên quần thể 3 đỉnh núi cao và thiêng ở khu vực này.
Pù Mằn có rất nhiều động - thực vật. Về động vật, có khỉ, vượn, sóc, gấu, nai, lợn lòi, hổ, báo, đười ươi... Về thực vật, có nhiều loại gỗ quý như: sa mu, đinh hương, táu, sến, lát hoa, lát chun, chò chỉ, dổi, vàng tâm, re hương... Song, mây, nứa, vầu, bương trong dãy núi này cũng rất nhiều. Tuy nhiên, động - thực vật, nhất là các cây gỗ lớn, nứa, vầu... chỉ ở lưng chừng ¾ núi trở xuống. Càng lên cao cây gỗ lớn càng ít đi và khi lên đến đỉnh thì chỉ có cây thân nhỏ, cây bụi mọc lúp xúp cao không quá 8m.
Phía đông núi Pù Mằn là đỉnh Nóc Ngua và xã Lâm Phú (huyện Lang Chánh); phía tây núi Pù Mằn là xã Sơn Hà (huyện Quan Sơn); phía nam núi Pù Mằn là đỉnh Pù Kùn (bản Xum, xã Sơn Hà, huyện Quan Sơn), xã Yên Khương (huyện Lang Chánh); phía bắc núi Pù Mằn là bản Ngàm (xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn) và tuyến đường 217.
Pù Mằn thuộc quần thể đầu nguồn suối Ngàm, một dòng suối dài, có lưu lượng nước khá lớn dùng để tưới tiêu cho cánh đồng bản Ngàm, cấp nước cho các hồ, ao cá và nước sinh hoạt cho bản, các cơ quan, nhà trường với số lượng hàng nghìn người. Đây là một danh thắng đẹp, kỳ thú. Bảo vệ, giữ gìn không gian Pù Mằn cũng là bảo vệ môi trường sinh thái để cho rừng mãi xanh, tạo nguồn sinh thủy, chống lũ ống lũ quét. Pù Mằn cùng với động Nang Non là những danh thắng độc đáo của vùng đất Quan Sơn.
6.5.5. Các di tích, danh thắng xã Tam Thanh
Thác 20 sải ở bản Pa 
Suối Pa bắt nguồn giáp biên giới Việt - Lào chảy về Việt Nam qua các bản: Pa, Cha Lung, Phe, Piềng Pa rồi đổ ra sông Lò tại bản Piềng Pa (chợ Tam Thanh). Suối dài trên 25km, lưu lượng nước khá lớn, chỗ bắt nguồn của nó gọi là hang Trình gần với đất mường Pao (huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Do suối Pa chảy qua nhiều bản, có nhiều khe suối dồn nước về nên càng về hạ lưu nước càng nhiều và tạo ra các vụng sâu như vằng Hừa (hay còn gọi là vằng Ngước (vụng Thuồng Luồng) tại Piềng Pa.
Nhiều núi kéo xuống suối, trong đó có cả núi đá tạo thành các thác nước, các hang hốc dưới nước như vằng Hu Ngước (vụng Hốc Thuồng Luồng) ở bản Cha Lung, cánh Pa Tốt (thác Cá Dừng) ở bản Pa.
 Cánh Sào Và (thác 20 sải) cách bản Pa 3km về phía thượng nguồn. Nhờ lưu thủy của suối Pa mà các bản Pa, Cha Lung, Phe, Piềng Pa có nước tưới ruộng, làm ao thả cá và nước sinh hoạt dồi dào. Hàng năm, con suối này còn cung cấp cho đồng bào dọc suối hàng tấn cá. Thậm chí các bản lân cận như bản Bôn, bản Kham, bản Nà Ấu, bản Mò cũng vào suối kiếm cá về ăn. Suối Pa hào phóng cho rất nhiều cá, tôm. Do vậy đồng bào rất yêu quý trân trọng suối Pa.
* Các danh thắng suối Pa từ ngoài vào
- Vằng Hừa (hay còn gọi là vằng Ngước) là một vụng nước sâu trong xanh ở ngay bản Piềng Pa (trụ sở xã Tam Thanh hiện nay). Sở dĩ có tên là vằng Hừa là vì theo tiếng Thái, “vằng” là vụng nước, “hừa” là thuyền. Trước đây đồng bào muốn đánh bắt cá tại vụng nước sâu này phải đi thuyền và nhiều thuyền đã bị xoáy nước làm chìm mất tích. Do nhiều thuyền và người mất tích nên đồng bào ngờ là thuồng luồng bắt vì vậy vũng nước này còn được gọi là vằng Ngước (vụng Thuồng Luồng).
- Vằng Hu Ngước (vụng Hốc Thuồng Luồng) ở bản Cha Lung cũng là một vụng nước sâu. Ở đó có một hang (hốc) không rộng lắm, chỉ vừa chui lọt người, kéo dài vào trong núi đá chìm dưới nước sâu. Trong hốc đó có rất nhiều cá. Có nhiều trường hợp người chui vào đó bị mất tích luôn nên đồng bào cho là bị thuồng luồng bắt, vì vậy gọi hốc đá đó là hu Ngước (hốc Con Thuồng Luồng), vụng nước đó gọi là vằng Hu Ngước (vụng Hốc Thuồng Luồng).
- Kánh Pa Tốt (thác Cá Dừng): Phía trong bản có một thác dựng đứng khá cao trên dòng suối Pa. Cá từ hạ lưu suối Pa lên đó đều phải dừng lại vì không thể qua thác này được. Do vậy đồng bào gọi thác nước này là kánh Pa Tốt. Cá ở thác Cá Dừng rất nhiều, đồng bào đi bắt lúc nào cũng được, thậm chí vào mùa cá lên có người bắt được một lúc hàng tạ cá các loại.
- Thác 20 sải: Cách bản Pa khoảng 3km về phía thượng nguồn có một thác cao, nước tung trắng xóa rất đẹp. Hai mươi sải là từ dùng phổ biến, ước lượng cho những thác nước cao. Vì thế mà ở Quan Sơn có nhiều thác 20 sải.
Thác 20 sải ở suối Khà, bản Ngàm 
Suối Khà bắt nguồn từ gần biên giới Việt - Lào, gần “sắn có Mòn”, giáp với xã Sơn Hà, xã Tam Lư chảy theo hướng đông nam sang tây bắc qua bản Khà ra bản Có Hướng đổ vào sông Lò tại bản Ngàm (bản Khà, bản Có Hướng nay cũng thuộc bản Ngàm). Bản Khà là một bản nhỏ phía thượng nguồn suối Khà, cách bản Có Hướng khoảng 3km, nay không có người ở cố định, chỉ có vài hộ dân Có Hướng vào đó tăng gia, chăn nuôi làm chòi ở tạm.
Thác 20 sải suối Khà ở gần bản Khà, xung quanh thác không còn cây gỗ to, chỉ còn chuối rừng, lau lách vì trước đây dân bản Có Hướng (bản Ngàm) vào phát rẫy đã chặt hết. Nay rừng chưa phục hồi.
Thác 20 sải ở suối Khà có 3 tầng, tầng dưới cùng có vụng nước khá rộng ở dưới chân thác.
Chảo Thuồng Luồng (Ang Ngước) ở sông Lò 
Chảo Thuồng Luồng là một hốc đá có miệng như lòng chảo nằm cách bờ sông Lò 2m về phía nam. Tại đây có một suối chảy ra, đồng bào gọi là suối Ang Ngước. Ang Ngước ở bờ nam sông Lò tại cửa khẩu tiểu ngạch, thuộc phần đất của xã Tam Thanh.
6.5.6. Các di tích, danh thắng xã Sơn Lư
Động Nang Non (pha Su Lú)
Động Nang Non ở xã Sơn Lư, huyện Quan Sơn còn có tên gọi tiếng Thái là thắm pha Su Lú, có diện tích khoảng 17,5ha. Từ thị trấn huyện Quan Sơn theo quốc lộ 217 đến Km 39 xã Sơn Lư nhìn sang phía nam sông Lò thấy một núi đá có cây thả mình xuống dòng sông Lò, nơi đây chính là động Nang Non. Muốn đến động Nang Non phải dùng thuyền, bè qua sông Lò. Từ bờ sông Lò lên khoảng 100m rẽ về phía trái là đến cửa hang. Hiện nay huyện Quan Sơn đã cho xây bậc và tay vịn lên xuống với hơn 300 bậc bê tông.
Hang rộng chừng 10m, sâu vào khoảng 70m, cao trên 17m rồi chia thành 2 nhánh, 2 tầng. Tầng trên có một tràn đá tạo thành phản nhũ đá có hình tựa như cô gái đang nằm ngủ (tiếng Thái có nghĩa là nang non).
Động Nang Non nằm trong vùng đồi núi cao, có đặc tính chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều, chịu ảnh hưởng của gió tây nam thổi từ tháng 4 đến tháng 8, gió mùa đông bắc thổi từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Thời tiết rất lạnh kèm theo mưa phùn và sương giá. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 22 - 240C, nhiệt độ cao nhất có tháng lên đến 38 - 390C. Lượng mưa trung bình từ 1600 - 1900mm và phân bố không đều giữa các tháng, mưa nhiều nhất tập trung vào tháng 7 - 8. 
Khu vực động Nang Non chịu ảnh hưởng thủy văn từ sông Lò, đây là vùng có địa chất thủy văn phức tạp do địa hình kiến tạo nhiều đồi núi dốc. Tuy nhiên khu vực động Nang Non có độ cao lớn từ 164m đến 329m do vậy không bị ảnh hưởng nhiều của thủy văn sông Lò.
Thiên nhiên ở khu vực động Nang Non còn gần như nguyên sơ, với địa hình đồi núi tự nhiên kết hợp với sông Lò chảy qua phía tây khu động. Khu vực động Nang Non chủ yếu là đất rừng tự nhiên, cây lâu năm... hiện nay, có tuyến đường mòn dẫn từ bến thuyền lên động. Động Nang Non hiện chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng của nó. Muốn vào động Nang Non hiện nay chỉ có đường thủy đi thuyền, bè, mảng qua sông Lò, đường vào khu động chỉ có 01 bến. Hệ thống giao thông trên khu vực động Nang Non chủ yếu là các đường mòn dân sinh, tuyến đường dẫn vào cửa động là đường bậc thang với bề rộng 1,5m.    
Địa hình trong khu vực động là các đồi núi dốc với điểm cao nhất có cốt 325m, khu vực sát mép sông có cốt cao độ là 169,97m, khu vực này chủ yếu là địa hình tự nhiên được kiến tạo. Trong lòng hang hẹp là một khoảng không gian rộng có những thạch nhũ lớn từ trần hang rủ xuống, có một hồ nhỏ trong vắt và có một con suối nhỏ chảy qua. Độ sâu của hang hiện nay vẫn chưa được khám phá hết, đó vẫn đang còn là một điều bí ẩn chờ khám phá.
Tương truyền rằng thế kỷ XV khi Lê Lợi dẫn binh lên Lào để xuống Con Cuông (Nghệ An) đánh giặc Minh sau đó đánh ra Bắc. Khi qua đây ông đã vào hang này thăm cảnh và thắp hương nhưng không ghi lại bút tích gì.
Vào năm 2014, động Nang Non đã được quy hoạch xây dựng thành điểm du lịch sinh thái. Sau khi hoàn thành, động Nang Non sẽ trở thành một điểm du lịch hấp dẫn.
6.5.7. Các di tích, danh thắng xã Tam Lư 
Bản Hậu, Vụng Hậu 
Bản Hậu, xã Tam Lư ở trên trục đường từ Km 42 đi xã Tam Thanh và Mường Pao (tỉnh Hủa Phăn - Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào). Bản Hậu là bản văn hóa cấp tỉnh. Nhân dân ở đây chủ yếu là người dân tộc Thái và một số hộ người Kinh mới lên nhập cư làm ăn buôn bán nhỏ mấy năm gần đây. 
Bản Hậu hiện có 143 hộ, 636 khẩu, sống chủ yếu bằng nghề nông - lâm nghiệp. Bản ở dọc theo bãi bằng chân đồi nhìn ra cánh đồng và sông Lò. Trên địa bàn có trường tiểu học, THCS và mầm non Tam Lư đặt trụ sở. Bản còn có cầu treo bắc qua sông Lò rất đẹp.
Vụng Hậu - sông Lò đoạn qua bản Hậu là bến của bản Hậu cũng rất đẹp với những câu chuyện huyền thoại, ly kỳ, nửa thực nửa hư mà thật lý thú. Nước vụng Hậu trong xanh chảy lững lờ. Phía bản Hậu là bãi cát trắng thoải, dốc xuống sông, phía bờ đối diện là núi đá đứng chìm chân xuống nước tạo thành vụng nước sâu. Phía núi đá có hang chìm thông đến Pù Kùn (bản Xum, xã Sơn Hà) dài vài chục ki lô mét. Nếu thả một bó lá dong ở hang trên đỉnh Pù Kùn thì sau 7 ngày bó lá dong đó sẽ nổi lên tại vụng Hậu.
Bờ vụng Hậu phía tây (phía bản Hậu) là bãi bằng. Các thiếu nữ bản Hậu trồng dâu nuôi tằm ở đó. Theo các cụ già kể lại, xưa kia ở vụng Hậu có con thuồng luồng thường giả thành gà trống rơi xuống nước đang giãy giụa, con cá to đang ngáp chết bơi ngửa rúc vào bờ để nhử các cô gái. Khi các cô gái xuống sông bắt gà, bắt cá thuồng luồng sẽ lôi xuống hang và không thể lên được nữa. Có khi thuồng luồng biến thành chàng trai khôi ngô, tuấn tú, khéo nói đến tán tỉnh các cô gái. Thậm chí có đêm trăng thanh gió mát, thuồng luồng biến thành chàng trai vào bản tán gái như những chàng trai Thái. Có cô gái Thái thấy chàng trai lạ mặt đã hỏi chàng trai đến từ đâu, thì được đáp:
Pí lung du nóng Dạ
Pí pá du nóng Uấn
Tuấn khình bá du khò Vằng Hậu
Cháu phén pựn du tén Pù Kùn.
Dịch:
Anh vợ tôi ở ao Dạ
Chị vợ tôi ở ao Uấn
Bản thân tôi ở cổ vụng Hậu
Tổ tiên tôi ở đỉnh Pù Kùn.
Lúc ấy, các cô gái và dân bản mới biết là ở vụng Hậu có thuồng luồng.
Do vụng Hậu thiêng, nước sâu lại có nơi sâu đến 10m nên rất nhiều cá ngon, cá to như: cá dốc (pa pộc), cá chày vây đỏ (pa tệt), có con đến 10 - 15kg. Cá ở đây nổi lên từng đàn ăn quả đa chín rụng xuống nước. Phải là những người có gan và biết thủ thuật bài trừ con thuồng luồng quấy nhiễu thì mới dám đến thả câu, thả lưới và quăng chài bắt cá tại vụng nước này.
Cũng theo các cụ già kể lại, trước đây vụng Hậu có lúc nước cuộn thành cột sóng lớn vài mét; có lúc tự nhiên nước cạn xuống vài mét hoặc dâng lên vài mét; có khi đang xanh trong tự nhiên lại đục ngầu trong khi các vụng nước khác ở kề phía trên, phía dưới vẫn xanh trong. Vì thuồng luồng vụng Hậu hay quấy nhiễu nên thuồng luồng vụng Chiếng (sông Mã) đã lên diệt trừ. Hai bên ẩu đả một trận quyết liệt làm vang động cả vùng trong một đêm mưa gió.
Ngày nay, nước vụng Hậu đã êm ả, bình thường như bao vụng nước khác của sông Lò. 
6.5.8. Các di tích, danh thắng xã Sơn Điện 
Quần thể Pha Phanh - Căn cứ địa kháng chiến chống Pháp
Pha Phanh là một dãy núi đá kéo dài từ bản Na Hồ, bản Sủa (xã Sơn Điện, huyện Quan Sơn) xuống xã Nam Động về xã Nam Tiến (huyện Quan Hóa) dài hơn 30km, tạo thành bức tường đá bảo vệ quê hương, bảo vệ căn cứ kháng chiến của ta thời chống Pháp. Thời kỳ 1948 - 1953 Ủy ban hành chính kháng chiến xã Sơn Thủy xuống bản Sủa rồi bản Lở trong dãy Pha Phanh để tản cư tiếp tục lãnh, chỉ đạo cuộc kháng chiến của địa phương.
Pha Phanh có nong Uấn gắn liền với huyền thoại dân gian về chàng thuồng luồng ở vụng Hậu, sông Lò xã Tam Lư. Mặc dù vị trí ở cách xa nhau vài chục cây số nhưng nong Uấn, nong Dạ, Pù Kùn, vụng Hậu có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành những huyền thoại ly kỳ xoay quanh mô típ kể về thuồng luồng. 
 Pha Phanh là dãy núi có cây có nhiều loại gỗ quý như: pơ mu, thông, tre, dổi, chò chỉ, vàng tâm, re thơm, trai, nghiến... Động vật nơi đây có sơn dương, gấu, khỉ, vượn (ở trên núi), rùa, hoẵng, nai, lợn lòi (ở chân núi, các bãi cỏ, các thung khe xung quanh dãy núi Pha Phanh). Ngoài ra, các loại chim như: trĩ, hồng hoàng, gà lôi, chim cút và các loại bò sát, gặm nhấm cũng nhiều. 
Bản Ngàm 
Bản Ngàm cách đây hơn 100 năm có tên là bản Ka Nhăng. Bản Ka Nhăng có từ lâu đời (cách đây khoảng 700 năm đã có bản này).
Bản Ngàm là bản đầu tiên xây dựng bản văn hóa của xã Sơn Điện, đến nay bản đã trở thành bản văn hóa cấp tỉnh. Bản Ngàm còn được Chủ tịch UBND tỉnh công nhận là “khu dân cư hiếu học tiêu biểu” cấp tỉnh năm 2009. Năm 2015 bản được UBND huyện công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Trong bản, theo các nhánh đường bê tông kiên cố từng dãy nhà sàn rộng lớn khang trang, không gian làng bản xanh, sạch, đẹp. Người bản Ngàm quý khách, hiếu học. Phụ nữ bản Ngàm xinh đẹp, khéo tay. Nhiều nét hoa văn thổ cẩm đang được dạy và phát triển ở bản Ngàm. Trong bản, hầu như nhà nào cũng có khung cửi dệt vải thổ cẩm.
* Các điểm du lịch sinh thái tiềm năng ở bản Ngàm
- Núi Pha Đón - Chân núi Pha Đón bản Ngàm có nhiều cây, lắm thú. Ở đó đồng bào còn phát hiện trâu rừng, bò rừng thỉnh thoảng về đây ăn cỏ. Năm 2003 có một con trâu rừng nặng khoảng 700kg theo đàn trâu nhà về bản. 
- Hát Hón (thác Lon) trên sông Luồng có vẻ đẹp kỳ thú.
Thác bản Nhài
Thác bản Nhài nằm ở suối Nhài (bản Nhài, xã Sơn Điện), có diện tích khoảng 16ha.
Địa hình tại khu vực thác bản Nhài tương đối phức tạp, chủ yếu là núi cao với cốt cao độ cao nhất là 562m và thấp nhất là 382m so với mặt nước biển. Thác ẩn hiện trong khu vực chủ yếu là núi đá, rừng cây lâu năm. 
Thác bản Nhài có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, thác nước đẹp hấp dẫn du khách tham quan, ngắm cảnh. Thác bản Nhài nằm trong hệ thống các điểm du lịch của huyện Quan Sơn, có tiềm năng tổ chức các hoạt động du lịch sinh thái rừng cũng như các hoạt động vui chơi giải trí. Trong tương lai, thác bản Nhài là điểm dừng chân lí tưởng cho du khách khi đến Quan Sơn và vùng biên giới miền Tây Thanh Hóa. 
Chưa có ai đo cụ thể nhưng dân địa phương gọi thác đó là thác 20 sải. Thác cao gần 40m. Đứng ở dưới chân thác nhìn lên thấy nước đổ xuống trắng xóa và “màn sương” tỏa ra xung quanh rất đẹp.
6.5.9. Các di tích, danh thắng xã Mường Mìn
Bản Yên 
Trước đây bản Yên là một bản lớn gồm 5 bản nhỏ hợp lại. Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 bản còn có tên là Pọng Yên, là bản duy nhất ở mường Mìn lập thành một pọng (Đơn vị hành chính của người Thái ngày xưa lần lượt là: bản, pọng, mường, châu, tỉnh). Bản Yên hiện nay có 110 hộ 562 khẩu, trong đó dân tộc Thái chiếm 94% còn lại là dân tộc Mường, Kinh. Hiện nay, bản Yên gồm hai khu dân cư hợp lại là bản Ta Bán (Yên Ngoài) và bản Piềng Sần (Yên Trong). Các bản nhỏ như: Huối Hặc, Huối Sứng, Nà On bây giờ không còn nữa.
Bản Yên có độ che phủ rừng 88%. Rừng bản Yên xanh quanh năm, có nhiều loại lâm sản quý như sa mu, sến, táu, chò chỉ, dổi, re thơm, đinh hương... Cây dược liệu, nứa, vầu ở đây cũng nhiều, tạo việc làm và thu nhập cho đồng bào.
Bản Yên có nhiều đồi núi, khe suối. Mỗi núi, mỗi đồi mang một tên riêng rất ấn tượng, như: suối Hặc (“hặc” tiếng Thái có nghĩa là yêu quý); suối Xứng (“xứng” tiếng Thái có nghĩa vừa ý đẹp lòng); suối On (Nà On) (“on” tiếng Thái có nghĩa là vui vẻ hoặc thỏa thích); suối Khé (“khé” tiếng Thái là quế); suối Cộng - Pom (“cộng” tiếng Thái có nghĩa là uốn cong); thác Xứng - Thác nước đẹp ở suối Xứng; thác Cộng - Thác nước cao ở suối Cộng; thác Khé - Thác nước cao ở suối Khé đầu nguồn suối Yên; Keo Sam Tạng - Eo ngã ba liên thông với hai xã Tam Thanh, Sơn Điện; thác Dồm (suối Hặc) - Thác nước đẹp ở suối Hặc; núi Phứng (núi ong mật, ong khoái làm tổ); pù Nộc Cộc - đồi Phượng Hoàng Mỏ Sừng; pù Xà Lày - đồi Cái Kéo; pù Phạ Mứt - đồi Trời Tối.
Bản Yên còn có rất nhiều cây cọ, cọ mọc từng đồi riêng hoặc xen kẽ trong rừng gỗ, nứa, vầu tạo nên nguồn lâm sản nhiều nhất so với các bản trong xã. Do nhiều cây cọ mà gấu, khỉ, chim, thú ăn quả rất nhiều. Trước đây từng đàn chim phượng hoàng mỏ sừng cổ vàng, con to nặng đến 4-5kg bay từng đàn che bóng mặt trời. Tiếng Thái gọi là “nộc cộc pừng lai tố bín mứt phạ” (Nghĩa là chim phượng hoàng đàn nhiều con bay tối trời).
Bản Chiềng 
Ở địa bàn bản Chiềng có các cảnh đẹp như:
Hát Tác Lét hoặc Kền Tao là một thác nước có 3 nhánh của sông Luồng ngay trước mặt bản. Thác tung bọt trắng xóa suốt ngày đêm. Những người xuôi bè qua đây thường rất ngại thác này vì nó khó xuôi hay mắc bè. Sở dĩ có tên là hát Tác Lét (thác Phơi Nắng) vì nhiều bè xuôi về đây mắc cạn phải phơi nắng cả ngày. Để tránh được bị mắc bè nhiều người đã phải đậu bè phía trên thác rồi đi khảo sát địa hình sau đó lên quay bè của mình mới xuôi trót lọt. “Quay bè” người Thái nói là “táo pè” do vậy có tên là hát Kền Tao (thác Quay Bè).
Ở đầu thác có một tràn đá lớn nhô cao có tên gọi là Kền Hán (tảng đá người Hoa). Vì ở đó thời phương Bắc xâm lược nước ta có nhiều lính phương Bắc đã bị quân ta tiêu diệt tại đó khi chúng qua sông.
Suối Bóng - kánh Pá Ó
Suối Bóng thuộc đất bản Chiềng bắt nguồn từ Pù Kút chảy qua đường 217 tại km 73+300m xuôi về bản Huối Bóng rồi ra sông Luồng tại cầu suối Bóng của tuyến đường vành đai biên giới đi qua bản Bơn xuống bản Luốc Làu. Suối Bóng dài gần 10km chảy theo hướng tây nam - đông bắc.
Lưu vực suối Bóng liên tiếp có nhiều dông núi, khe suối đổ về tạo cảnh quan đẹp do nhiều cây cối, chủ yếu là rừng gỗ hỗ giao với vầu, nứa hoặc vầu, nứa thuần loài che phủ. Suối Bóng khá bằng phẳng, trước thập kỷ 70 lưu lượng nước khá lớn nên đến mùa cá lên (tháng 3 - 6 hàng năm) hàng đàn, hàng lũ cá từ sông Luồng vào cư trú, sinh đẻ ở suối.
Cách sông Luồng vào khoảng 7km có một thác cao khoảng 20m thẳng đứng, ở dưới chân thác có một vụng rộng chừng 30m2 do đá tảng tạo nên. Khi cá lên gặp thác thì dồn ở đó hàng đàn, hàng đống. Do cá không lên được thác phải dồn ở chân thác nên đồng bào gọi thác nước đó là kánh Pá Ó hoặc kánh Còng Cóng (thác Cá Dồn). Vụng nước chân thác gọi là vằng Pá Ó (vụng Dồn). Khi cá ngược lên thượng nguồn gặp thác nước dựng đứng thường nhảy lên. Lợi dụng hiện tượng này đồng bào còn đan các dụng cụ đón cá nhảy. Khi chúng nhảy lên sẽ rơi vào dụng cụ đặt sẵn. Dụng cụ này người Thái gọi là “xón giáng” cho nên ngoài thác nước này, còn có thác khác là kánh Xón Giáng ở ngoài kánh Pá Ó khoảng 500m.
Nhìn chung, suối Bóng có nhiều cảnh đẹp rất nên thơ, là khu vực làm ăn, nuôi sống nhân dân bản Chiềng từ bao đời nay. Trước đây trong suối Bóng rất nhiều nai, hoẵng, lợn lòi, khỉ, vượn và chim thú khác nên thợ săn thường hay lui tới. Mỗi lần lui tới để săn thì không bao giờ về tay không. Không được thú lớn thì thú nhỏ hoặc chim, gà rừng mang về. Trước đây lưu vực suối Bóng còn có cả công, trĩ, gà lôi. Dưới nước thì có nhiều cá, tôm, cua, ba ba, là nguồn thực phẩm cho đồng bào nơi đây.
Hệ thống dông núi, khe suối đổ xuống lưu vực suối Bóng ở cả hai phía rất nhiều tạo ra hình răng lược nhìn rất đẹp mắt. 
6.5.10. Các di tích, danh thắng xã Sơn Thủy
Động Bo Cúng
Động Bo Cúng được xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 3180/QĐ-UBND ngày 18/09/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa.
Động Bo Cúng nằm trong phạm vi bản Chanh, xã Sơn Thủy. Động nằm ở độ cao trung bình từ 350m đến 600m so với mực nước biển. Đặc điểm nổi bật của địa hình nơi đây là có những dãy núi đá chạy dài xen kẽ các khối núi đá vôi với nhiều hang động; nhiều khe suối đan xen tạo nên cảnh sắc thơ mộng. 
Hướng dốc của động từ hai hướng đông, tây tụ vào khu vực trung tâm tại suối Xia, có độ dốc cao, nhiều đoạn hình thành vực. Khu vực bằng phẳng ven suối có cao độ khoảng 380m, khu vực triền núi có cao độ từ 400 - 500m, khu vực núi cao có cao độ đỉnh từ 600 đến 700m.
Theo những người dân địa phương kể lại, vào năm 1968, ông Lương Văn Thương, người bản Chanh, xã Sơn Thủy đi săn thú đêm, hôm đó ông bắn trúng một con cầy bị thương rớt xuống hang. Vì tiếc con mồi ông đã vào theo, khi mới vào thì phải cúi mình chui vào nhưng càng vào thì càng rộng và rất đẹp. Ông mải mê chiêm ngưỡng cảnh đẹp nên không để ý tìm bắt con cầy. Lúc đó là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đời sống kinh tế khó khăn, hơn nữa chưa có đường ô tô vào đến bản Chanh nên chính quyền địa phương chưa để ý đến hang động này. Đến năm 2008 khi có tuyến đường vành đai biên giới từ Hiền Kiệt, huyện Quan Hóa chạy qua gặp đường quốc lộ 217 tại Km 66 - bản Luốc Làu, xã Mường Mìn thì động Bo Cúng, bản Chanh mới có dịp khám phá và giới thiệu với công chúng gần xa.
Động Bo Cúng có độ sâu khoảng 800m, rộng từ 20 - 50m, trần động cao thấp khác nhau khoảng từ 20 - 30m. Toàn bộ lòng động được chia thành 10 khoang lớn nhỏ. Tại mỗi khoang là tập hợp hàng loạt các tạo tác kỳ thú của tạo hóa.
Với những gì hiện hữu và cả những nét đẹp chưa được khám phá, động Bo Cúng được xem như một kỳ công của tạo hóa ban tặng cho con người. Nơi đây xưa kia còn có cả một khe suối mỗi khi mùa mưa, lũ, từ trong khe chảy ra rất nhiều tôm. Bởi đặc điểm ấy mà người dân bản Chanh đã gọi động này theo tiếng địa phương - tiếng Thái là Bo Cúng nghĩa là Mó Tôm. 
Khu vực động Bo Cúng là một quần thể núi đá rất rộng với diện tích hàng nghìn héc ta, kéo dài từ bản Chanh về gần bản Khà dọc theo hai bên suối Xia. Trong các dãy núi đó có nhiều hang động và chim, thú cư ngụ như: hang Dơi, hang Gấu, hang Cọp, hang Khỉ, hang Vượn... Trên quần thể núi đá có cây này trước đây rất nhiều chim, thú. Khỉ, vượn nhiều đàn, mỗi đàn hàng trăm con. Gấu cũng nhiều vì trên núi có nhiều tổ ong và cây ăn quả mà chúng ưa thích. Hổ kiếm ăn ở trên núi và địa bàn xung quanh có nhiều lợn lòi, nai, hoẵng, sơn dương tối về hang trên núi ngủ. Cá, tôm, cua, ốc ở đoạn suối Xia này cũng rất nhiều, gỗ có nhiều loại gỗ quý như trai, lý, nghiến, lát hoa, lát chun (ở trên núi), chò chỉ, dổi, vàng tâm, sâng, sú (ở chân núi).
Quần thể Pha Dùa, Pha Hen
Ở địa phận bản Bơn xã Mường Mìn có hai dãy núi đá có cây đối diện nhau, ở giữa có con sông Luồng chảy qua. Đó chính là Pha Dùa và Pha Hen, nơi đây chính là ranh giới giữa mường Mìn và mường Xia xưa (ngày nay là xã Mường Mìn và xã Sơn Thủy).
Núi phía bắc sông Luồng là Pha Hen vì núi cao, đứng dưới đường vào Sơn Thủy và bờ sông Luồng nhìn lên phải ngửa mặt mới nhìn thấy đỉnh núi. Ngửa mặt tiếng Thái gọi là “hen ná” hoặc “hen khò” (ngửa cổ). Do vậy mà có tên Pha Hen. Núi phía nam sông Luồng đối diện với Pha Hen gọi là Pha Dùa (“Dùa” tiếng Thái có nghĩa là nhô ra, vươn ra.) Dãy núi này vươn ra sông Luồng. 
Do hai dãy núi này đối diện và sát gần nhau nên dân gian đã liên tưởng như chiếc cầu bắc qua sông Luồng nối liền 2 bờ từ Pha Hen và Pha Dùa.
Pha Hen cặp Pha Dùa cai cầu khúa lạn
 Dịch:
Núi Hen và núi Dùa bắc cầu nhịp đá.
Núi Pha Dùa thơ mộng và linh thiêng, gắn với nhiều huyền thoại lưu truyền trong dân gian, trong đó đặc sắc nhất là truyện Pha Dùa.
Tuy là núi đá cao, nhưng Pha Dùa có lối lên, nên các thợ săn của mường Mìn, mường Xia ngày trước hay lên núi Pha Dùa săn thú như: gấu, khỉ, vượn, sơn dương, chim đại bàng mỏ sừng cổ vàng. 
Đền thờ Tư Mã Hai Đào
Bản Chung Sơn xưa kia là bản trung tâm của mường Xia, nơi cư trú của Tư Mã Hai Đào, khi ông rời Tén Tằn, huyện Mường Lát về ở mường Xia. Nơi đây khá bằng phẳng, phong cảnh sơn thủy hữu tình. Phía nam bản tựa vào núi Pha Dùa, phía bắc trước mặt bản là sông Luồng và dòng suối Xia trong xanh thơ mộng, miệt mài chảy ra gặp sông Luồng tại bản Pom Cò (Thủy Chung) đối diện với bản Chung Sơn. Hướng này đi thông lên tận Mường Lát và xuống đến Hồi Xuân - Quan Hóa. Phía đông bản Chung Sơn là Piềng Dùa, một bãi khá rộng (hiện nay bản Thủy Sơn (Na Tuồng) dời dân sang ở hai bên đường vành đai biên giới là tuyến đường chạy từ xã Hiền Kiệt huyện Quan Hóa đi thông về xã Mường Mìn và các xã, huyện phía dưới). Phía tây bản Chung Sơn giáp bản Xuân Thành nơi Pháp đóng đồn năm 1948 - 1950 đi thông lên bản Na Mèo và sang Lào.
Do vị trí thiên thời địa lợi này mà Tướng quân Tư Mã Hai Đào đã chọn nơi này đóng đại bản doanh và cư trú đến cuối đời mình ở bản Chung Sơn (Xia Tớ).
Đền thờ Tư Mã Hai Đào tọa lạc ở gần cây đa cổ thụ phía bên trên đường đi từ Km 66 qua Sơn Thủy đi Na Mèo (Km 78).
Đền thờ cũ của ông cũng là ngôi nhà ông ở trước đây chính là vị trí sân của đền thờ bây giờ. Do thế ở hơi thấp và quá gần đường cái, nên khi đầu tư xây dựng đền thờ năm 2010 huyện Quan Sơn đã xin phép ông xây lên phía trên cách đó khoảng 15m. Còn vị trí nền nhà cũng là đền thờ cũ của ông để làm sân cho đền thờ. Hiện nay, đền thờ Tư Mã Hai Đào ở cách đường cái về phía đồi, đường lên Na Mèo khoảng 50m. Vị trí mới này vừa cao ráo vừa có sân rộng cho thế hệ con cháu, dân bản, khách thập phương đến viếng thăm thắp hương cúng tế ông.
Hằng năm cứ đến ngày 15/3 âm lịch, UBND xã Sơn Thủy lại tổ chức cho nhân dân và đồng bào xa gần đến thăm viếng và 5 năm một lần, huyện Quan Sơn tổ chức lễ hội mường Xia để tri ân Tướng quân Tư Mã Hai Đào. Lễ hội thu hút cán bộ, nhân dân các xã trong huyện, các huyện lân cận như: Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Lang Chánh và một số bản lân cận của huyện Viêng Xay - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đến dự rất đông vui.
Hòn đá vía (cột trụ của mường Xia, Chu Sàn) trước đây đặt ở bãi rộng, nơi làm sân vận động của bản Chung Sơn và lễ hội mường Xia bây giờ. Vị trí hòn đá vía (trụ mường) cách đền thờ Tư Mã Hai Đào khoảng 150m về phía bắc, trước mặt đền thờ ngay trong bản Chung Sơn.
Ngày khánh thành đền thờ cũng là ngày khôi phục lại lễ hội mường Xia lần thứ Nhất (năm 2010). Ban tổ chức lễ hội đã cúng trâu xin phép được chuyển hòn đá vía (lặc mường, trụ mường) về sân đền thờ Tư Mã Hai Đào. 
Núi Lá Hoa, bản Mùa Xuân - bản Xia Nọi
Bản Mùa Xuân trước năm 1990 gọi là bản Sa Lước. Tuy gọi là bản nhưng chỉ là vài hộ dân bản Muống lên đó ở tạm thời trong mùa rẫy mà thôi.
Đầu năm 1990, đồng bào Mông ở xã Pù Nhi, huyện Mường Lát di cư sang ở thấy cảnh đẹp, cây cối quanh năm xanh tươi, mây giăng tứ mùa, không khí mát lành như mùa xuân nên đặt tên bản của mình là bản Mùa Xuân.
Núi Lá Hoa cách trung tâm bản Mùa Xuân khoảng 5km về phía bắc (gần bản Xia Nọi). Núi này cách bản Xia Nọi khoảng 1km và hiện nay thuộc đất bản Xia Nọi quản lý.
Núi Lá Hoa là một núi đá có cây. Trên đỉnh núi có nhiều cây gỗ với sắc lá đỏ vàng rực rỡ. Do vậy người Thái đặt tên là pha Bóc Mạy.
6.5.11. Các di tích, danh thắng xã Na Mèo
Hang Trùng, hang Bó, bản Sa Ná 
Hang Trùng nằm ở phía dưới cửa suối Son khoảng 50m. Ngay cửa hang, trên cao 50m có một nửa tấm quan tài vắt trên mô đá có cây giữ lại từ bao đời nay. Trong hang, theo nhiều thợ săn khỉ, vượn trước đây có nhiều quan tài cũ và đồ vật cũ (nhiều cái đã hư hỏng) của người Thái như: bế, mâm gỗ.... Tại sao có đồ vật ở đó và có từ bao giờ không ai biết được.
Bản Sa Ná còn có một núi đá, đồng bào gọi là Pha Bó. Trèo lên Pha Bó ở độ cao khoảng 150m so với mặt đất ta gặp một hang khá rộng và càng đi sâu vào càng đẹp. Trong hang có Nà Kàng Koi (ruộng của người lùn) bằng đá nhũ giống như ruộng bậc thang của đồng bào Thái, bầu sữa mẹ (khối đá trên cao 2,5m) đang nhỏ sữa xuống đầu đứa con (hòn đá nhỏ cao khoảng 50cm) ở phía dưới và biết bao cảnh đẹp khác. Hang này đồng bào gọi là Hang Bó. Thời chiến tranh chống Mỹ để tránh máy bay Mỹ oanh tạc vào bản, nhân dân bản Sa Ná (xã Sơn Thủy, nay là xã Na Mèo) đã vào đây trú ẩn.
Pha Bó không cao lắm, núi đá có cây nên việc trèo lên hang Bó tương đối dễ dàng. Quần thể hang Sa Ná là một quần thể hang động đẹp và hấp dẫn. Với lợi thế nằm ở vùng biên giới và có cửa khẩu quốc tế, hang Sa Ná đã thu hút được nhiều khách du lịch không chỉ trong huyện mà còn có du khách Lào. 
Thác nước 20 sải ở suối Sàng 
 Suối Sàng bắt nguồn từ tiểu khu 189A đất lâm nghiệp của Ban quản lý rừng phòng hộ Na Mèo, chảy theo hướng đông bắc - tây nam giáp với địa phận bản Son xã Na Mèo. Suối Sàng dài khoảng 4km đổ ra sông Luồng tại Km 87+300, gần bãi bắn của Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo, phía dưới cầu cứng qua sông Luồng đi bản Ché Làu.
Nước suối Sàng trong xanh, mát rượi, là nguồn nước sạch phục vụ cho gần 1.000 hộ dân bản Na Mèo và các cơ quan đóng trên địa bàn Cửa khẩu Na Mèo. Từ cửa suối (bờ sông Luồng) theo suối Sàng vào khoảng 1,5km có một thác cao, nước tung bọt trắng xóa, mát rượi, đó chính là thác 20 sải suối Sàng cao gần 40m.
Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo
Cửa khẩu Na Mèo là nơi gặp gỡ của hai con suối là suối Pùn và suối Xôi chảy từ huyện Viêng Xay - tỉnh Hủa Phăn - nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về Việt Nam. Khi hai con suối lớn hợp nhau ở đó tạo thành dòng sông Luồng từ Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo chảy qua xã Na Mèo, Sơn Thủy, Mường Mìn, Sơn Điện huyện Quan Sơn về Nam Động, Nam Tiến, Nam Xuân, huyện Quan Hóa rồi đổ ra sông Mã tại Hòn đá ngang, xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa.
Sông Luồng dài hơn 100km, lưu lượng nước khá lớn. Trước những năm 1970 của thế kỷ XX đây là tuyến đường thủy để chính để đồng bào vận chuyển lâm sản, hàng hóa về Hồi Xuân, Cẩm Thủy bán.
Nơi cửa khẩu có hai cầu bắc qua suối Xôi. Cầu cũ nhỏ hơn và thấp hơn ở về phía hạ lưu suối Xôi theo tuyến đường 217 từ Việt Nam sang Lào. Cầu mới to hơn, cao hơn bắc qua suối Xôi cách cầu cũ về phía thượng lưu khoảng 100m. Đây là hai chiếc cầu thông thương giữa nước ta với nước bạn Lào và khách quốc tế đến Việt Nam hoặc từ các nước qua Lào sang Việt Nam. Cầu mới xây dựng năm 2002 do Việt Nam và Lào hợp tác đầu tư. Phía đông cầu là trạm kiểm soát cửa khẩu liên hợp của Việt Nam gồm các lực lượng: biên phòng, hải quan, kiểm dịch, thuế vụ... Phía tây cách đầu cầu khoảng 150m là trạm kiểm soát liên hợp của nước bạn Lào. 
Chợ Na Mèo cách cầu Nặm Xôi (cửa khẩu về phía đông hạ lưu sông Luồng) khoảng 300m. Tại nơi gần chợ có cây đa cổ thụ tỏa bóng sum suê rất đẹp và mát mẻ.
Các cơ quan đóng ở cửa khẩu gồm: Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Na Mèo ở trên đồi (đơn vị gần cửa khẩu nhất), Trạm kiểm soát liên hợp ở ngay Cửa khẩu, phía đông cầu Nặm Xôi (suối Xôi), Chi cục Hải quan Na Mèo, Cửa hàng Thương nghiệp miền núi, Bưu điện Na Mèo, khách sạn Cửa khẩu, Hạt giao thông Na Mèo, Phòng khám Đa khoa Na Mèo...
Theo quy hoạch thị trấn Na Mèo thì địa phận thị trấn khi thành lập sẽ bao gồm toàn bộ bản Na Mèo, bản 83, Cửa khẩu quốc tế Na Mèo kéo dài xuống đến Km 83 (5km).
Lợi thế có những hang động và các cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ đã tạo cho Quan Sơn những thế mạnh riêng, và đang dần hình thành ở đây một tuyến du lịch bắt đầu từ Quốc lộ 217 cho đến Cửa khẩu Na Mèo để kết nối các cảnh đẹp như: thác bản Xày, thác Ma Hao, núi Pù Mằn, cầu Pha Lò, bản Khạn, động Nang Non (pha Su Lú), thác bản Nhài, Pha Dùa, đền thờ Tư Mã Hai Đào, động Bo Cúng. Phát huy được lợi thế này Quan Sơn sẽ là một điểm đến hấp dẫn.

<

Tin mới nhất

Đền thờ Tư Mã Hai Đào(25/02/2023 8:43 CH)

Đời sống văn hóa các dân tộc ở huyện Quan Sơn(18/11/2019 10:34 SA)

Điều kiện tự nhiên(18/11/2019 10:29 SA)

Lịch sử hình thành(18/11/2019 10:20 SA)

    °